Cổ nhân thường nói: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”, dù là câu nói bông lơn hay lời ác khẩu, cuối cùng cũng đều có báo ứng tương xứng…
Đức Phật dạy: Nghiệp của “ác khẩu” rất lớn, lời nói gió bay nhưng nghiệp không bay. (Ảnh: Fineartamerica)
Những lời ái ngữ có thể xoa dịu nỗi đau trong lòng, làm vơi đi tâm trạng buồn bã của mọi người. Và nếu khuyến tấn đúng thời điểm, đúng lúc có thể làm thay đổi suy nghĩ tiêu cực của đối phương. Từ đó, dần dần sẽ làm thay đổi những hành vi và những việc làm bất thiện.
Ngược lại lời nói cũng có thể đưa con người vào vực thẳm của tội lỗi, có thể khiến người ta phải ăn năn hối hận cả cuộc đời. Trong đó lời nói ác ngữ, ác khẩu là một trong những nguyên nhân đưa đến hậu quả như thế.
Ác khẩu, ác ngữ là những lời nói thâm độc, thô bạo, mắng nhiếc, chửi rủa, là những lời lẽ thiếu văn minh, đạo đức trong giao tiếp. Những lời nói cay độc gây tổn thương tới người đối diện cũng vô tình gây họa cho chính bản thân mình, điều này không phải ai cũng biết.
Hòa thượng đầu thai thành khỉ vì một lời ác khẩu
Trước đây ở thành phố Shravasti có một người giàu có rất tôn thờ Phật tên là Shizhi. Một hôm, ông ta chuẩn bị thật nhiều món ăn ngon, thành kính cúng bái Phật Đà và các tăng nhân. Sau khi nhận lễ, Phật Đà dẫn dắt chúng tăng quay trở về tịnh xá.
Đi được nửa đường, khi Phật và chúng tăng dừng chân nghỉ ngơi dưới một tán cây to ven hồ, bỗng một con khỉ từ trên cây nhảy xuống, xin mượn chiếc bát trong tay Phật. Sau khi đón nhận chiếc bát từ Phật rồi nhanh chóng rời đi, chỉ một chốc đã thấy nó quay lại. Nó cung kính dâng chiếc bát chứa đầy mật ong lên cho Phật.
Phật nhận bát mật ong, chia đều cho các tăng nhân để khỉ có thể nhận được càng nhiều phúc báo hơn. Khỉ ta thấy vậy, thích thú nhảy múa xung quanh. Một thời gian sau, khỉ chết được chuyển kiếp thành người, sinh ra trong gia đình Shizhi. Khi đứa trẻ này được sinh ra, mọi bát đĩa nồi niêu trong nhà đều đựng đầy mật ong. Vợ Shizhi lấy làm lạ, bèn đặt tên cho đứa trẻ là Mật Thăng.
Thời gian thấm thoắt trôi đi, chẳng mấy chốc Mật Thăng đã trưởng thành. Anh chán ghét hồng trần thế tục nên xin cha mẹ cho phép anh xuất gia. Cha mẹ anh đều rất vui mừng và đồng ý với quyết định của anh.
Sau khi được cha mẹ cho phép, Mật Thăng đã đến tịnh xá quy y cửa Phật. Do thiện duyên từ kiếp trước, anh rất nhanh đã tu thành chính quả.
Một lần, trên đường ra ngoài đi hoá duyên cùng các hoà thượng khác, mọi người khi đó đều cảm thấy khát khô cổ họng, ai cũng muốn có một cốc đồ uống. Lúc này hoà thượng Mật Thăng liền tung chiếc bát không của mình lên trời, khi hai tay giơ ra đón lại, chiếc bát đã chứa đầy nước mật tươi ngon, Mật Thăng liền đưa cho các hoà thượng khác để giải khát.
Khi trở về tịnh xá, một hoà thượng đã nói với Phật: “Trước kia Mật Thăng đã tu được phúc gì? Tại sao mọi lúc mọi chỗ đều có thể dễ dàng cầu xin được mật ong?”
Đức Phật đáp: “Các ngươi có nhớ cách đây rất lâu, có một con khỉ đã mượn chiếc bát đi lấy đầy mật để dâng lên Phật và chúng tăng hay không? Vì thiện tâm đó, nên khi chết nó đã được chuyển kiếp làm người, và vì người đó thành tâm, tiến cúng nước mật, nên bây giờ bất cứ lúc nào cũng có thể có được mật”.
Nghe Phật nói xong, chúng tăng lại hỏi: “Thưa Đức Phật, vậy kiếp trước của Mật Thăng vì lí do gì lại bị đày làm khỉ ạ?”
Lúc này có rất nhiều đệ tử đều vây quanh, Đức Phật nhìn một lượt các hòa thượng, chậm rãi nói: “Mật Thăng bị đày thành kiếp khỉ, là việc của 500 năm trước, đó là khi Phật Ca Diệp Như Lai còn tại thế. Khi đó có một vị hòa thượng trẻ tuổi, tình cờ trông thấy một hòa thượng khác nhảy qua một con suối nhỏ, liền cười nói trông bộ dạng hòa thượng kia cứ như con khỉ, do đó đã phạm vào tội ác khẩu và bị đày làm kiếp khỉ.
Sau đó hòa thượng đó đã nhận ra tội lỗi của mình, đã sám hối với vị hòa thượng kia để không bị đày xuống địa ngục chịu tội. Cũng vì cái kết duyên đó, con khỉ mới có thể gặp được Phật, kiếp này mới nhanh chóng thành chính quả như vậy”.
Cô đơn khi bệnh tật vì hay nói lời thô bạo
Thời Đức Phật còn tại thế, trong thành Xá Vệ có một trưởng giả rất giàu có tên là Bộ Tri Ca. Người này cha mẹ mất sớm nên không được giáo dục tử tế, tính tình lì lợm cứng đầu, rất dễ nổi nóng.
Mỗi lần nổi cơn sân hận, Bộ Tri Ca thường thốt ra những lời lẽ khó nghe, nên càng ngày càng bị người thân, thuộc hạ xa lánh.
Đến khi lâm bệnh nặng, không có lấy một người đến hỏi thăm. Bộ Tri Ca nằm liệt giường bởi không ai biết, cũng chẳng ai giúp gọi đại phu tới khám bệnh cho ông.
Đến lúc này, Bộ Tri Ca mới tỉnh ngộ nhận ra khẩu nghiệp mình đã gây ra trong suốt cuộc đời khiến giờ đây ông phải ngậm quả đắng, khi thân lâm bệnh tật mà cô đơn không một người thương mình ở bên.
Chúng ta cũng vẫn thường gặp rất nhiều những “Bộ Tri Ca” như thế trong cuộc sống, không chỉ ở thời đại của Đức Phật mà cho tới tận bây giờ.
Những người có tính tình thô bạo, hay chỉ trích và nổi nóng với người khác, đôi khi lại được gọi là những người “thẳng tính”, “bộc trực”. Tuy nhiên, ranh giới giữa việc ưa “nói thẳng, nói thật” với hay “nói lời thô bạo” lại rất mong manh, nếu không tỉnh giác có thể khiến bạn sa vào ác khẩu lúc nào không hay.
Trong “Thập thiện nghiệp đạo Kinh” Đức Phật có dạy rằng: “Ác khẩu là nói lời thô ác, mắng chửi, nguyền rủa. Sự tai hại không hề nhỏ“.
Thực tế cuộc sống quả đúng như vậy, lời nói thô ác thường tạo ra hố sâu ngăn cách giữa người với người, đôi khi còn khiến người ta thù địch nhau, chém giết nhau chỉ vì một trận cãi vã.
Tránh ác khẩu bằng 5 câu hỏi đơn giản
Tất nhiên, “nói thẳng nói thật” hay “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng” không đồng nghĩa với ác khẩu. Muốn biết một lời nói ra có phạm ác khẩu nghiệp hay không, cần xét đến hai yếu tố: động cơ và kết quả.
Phật giáo Mật thừa ở Tây Tạng ghi nhận lại có những trường hợp các đạo sư lại dùng cách lăng mạ để giáo dẫn học trò, khiến cho người học trò tỉnh ngộ ngay thời khắc bị mắng chửi.
Có thể kể tên Đạo sư Do Khyentse – người thầy hướng dẫn của đạo sư Patrul Rinpoche, một vị thầy rất nổi tiếng ở Tây tạng đầu thế kỷ XIX.
Chuyện kể rằng, một lần Khyentse mắng học trò với lời lẽ rất khó nghe và giơ ngón tay út ra (một cử chỉ nhục mạ) khi phát hiện ra một suy nghĩ xấu nơi chàng trai trẻ. Ngay sau thời điểm đó, người học trò nhập thiền và chứng đắc một kinh nghiệm tỉnh giác nội tại vô cùng quý giá.
Trong câu chuyện này, việc mắng chửi học trò nhìn bề ngoài có vẻ rất xấu, rất tệ, nhưng ẩn sâu trong đó là một động cơ tốt, hơn thế lại đem đến kết quả tốt, do vậy đó không phải là khẩu nghiệp mà thực ra lại là một phương tiện thiện xảo của người thầy tốt muốn giúp học trò tiến bộ.
Do vậy, mới nói, để xét một lời nói thô ác có phải ác nghiệp hay không, cần xét đến hai yếu tố “động cơ” và “kết quả”.
Tuy thế, có lẽ chuyện tương tự như trên ngoài đời thực không nhiều, nếu không nói là rất hiếm gặp. Bởi hầu hết mọi người sẽ khó đạt được kết quả lí tưởng như người học trò kia – sau khi nhận một lời mắng chửi. Thay vào đó, “kết quả” thường là sự đổ vỡ quan hệ giữa hai bên.
Các lời dạy của nhà Phật thường hay nhắc nhở, trong ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý, thì “Ý nghiệp” tuy vô hình nhưng lại là chủ, từ “không” mà “thành sự” đều do “ý” là điểm bắt đầu – chính là để nhấn mạnh vai trò của “động cơ” trong lời nói.
Do đó, lời nói hay lời mắng mỏ nhưng xuất phát từ tình yêu thương chân thật, thực sự quan tâm đến người đối diện, thì thường không bao giờ dẫn đến “kết quả” tệ hại cả. Và ngược lại.
Với những người vốn có tính cách bộc trực, muốn “nói thẳng nói thật” – tức là bản chất là có “tâm tốt”, nhưng để lời nói của mình không gieo nhân xấu, hãy luyện tập trước khi nói điều gì đó tự đặt 5 câu hỏi sau đây:
1. Nói có đúng lúc không?
2. Nói có đúng sự thật không?
3. Nói có tốt cho người nghe không?
4. Nói có đi cùng thái độ hòa nhã không?
5. Nói có xuất phát từ động cơ tốt không?
Có lẽ những người vẫn cho rằng mình “nói thẳng nói thật” mà lại thường nhận lại sự “mất lòng” từ người khác trong cuộc sống, luôn thấy các mối quan hệ bị đổ vỡ sau lời mình nói, nên cân nhắc những điều trên.
Bởi nhiều khi, chúng ta mặc định mình “nói thẳng vì muốn tốt” nhưng không hề biết rằng chính thái độ không hòa nhã đã làm hỏng tất cả.
Trong kinh Tạp A Hàm, Phật khuyên người đệ tử cần phải suy nghĩ trước khi nói: “Nếu ta không thích người khác nói lời thô ác với mình, thì người khác cũng như thế. Vậy tại sao với người khác, ta lại mạ nhục họ?”
Việc thường xuyên đặt ra những câu hỏi nêu trên trước khi “nói thẳng nói thật” sẽ giúp chính người nói kiểm soát cơn giận, bởi luyện khẩu cũng chính là điều tâm.
Tuệ Tâm (t/h)