Bức hại kèm theo ôn dịch, chính tín cuối cùng sẽ quật khởi

Do Thái giáo do Moses sáng lập có huy hoàng đến mấy, thì thuận theo thời gian trôi đi cũng không thể tránh khỏi việc tiến vào thời kỳ mạt Pháp. Chính Thần vẫn là chính Thần, chỉ có giáo nghĩa là mới bị bẻ cong, như vậy nhân loại cũng không cách nào được cứu rỗi ở trong môn đó nữa. Thần điện của Do Thái giáo đều đã biến thành thị trường, thậm chí làm nơi giao dịch súc vật, khó trách Chúa Giê-su muốn đem những người Do Thái tin vào Thần nhưng lại không biết kính Thần này rời khỏi Thần điện.

Sát hại Đức Giê-su

Chúa Giê Su giáng sinh lấy thân phận cơ hàn để truyền Pháp độ nhân Chúa Giê Su giáng sinh lấy thân phận cơ hàn để truyền Pháp độ nhân

Khi Do Thái giáo đi đến thời kỳ mạt Pháp hoàn toàn không thể cứu rỗi con người nữa, thì Chúa Giê-su xuất hiện, dựa trên cơ sở của Do Thái giáo mà truyền giảng tân Pháp, quy chính giáo nghĩa, vậy mà môn đồ Do Thái giáo không hiểu, ngược lại còn hại chết Đức Giê-su, người đã giáng sinh để tới cứu rỗi họ.

Cảnh tượng lịch sử lúc bấy giờ, trước khi Đức Giê-su bị áp giải đến phủ tổng đốc La Mã thống trị vùng đất Do Thái, trên thính đường xét xử của Do Thái giáo, rất nhiều người Do Thái muốn để Chúa Giê-su hiển hiện thần tích: “Ông hiển thần tích, chúng tôi sẽ tin ông là con của Thượng Đế, vì sao ông lại không dám trước mặt mọi người mà hiển thị một chút? Nếu không hiển hiện được, thì ông chính là kẻ lừa gạt.”

Kỳ thực, khi chưa đến lúc đại thanh toán cuối cùng, hoặc đến lúc quy phạm lại giáo nghĩa, thì không thể thần tích đại hiển được. Moses là khi cần thanh toán những người xấu của Ai Cập cổ coi Thần như địch, khi cần quy phạm lại giáo nghĩa, truyền “thập giới”, thì mới thần thông đại hiển; khi Đức Giê-su thần tích đại hiển – Phục sinh, thì cũng là khi cuối cùng Ông quy phạm sứ đồ đệ tử của mình. Nhưng các đệ tử phàm là chứng kiến được thần tích đại hiển thì đều đã tu đến đầu chót rồi, cảnh giới tầng thứ đều đã không cách nào đề cao được nữa, những gì còn phải làm chỉ là tích lũy thêm chút uy đức mà thôi. Hiện nay cũng là như vậy, đang cấp cơ hội đắc cứu cho con người, cấp cơ hội tu hành đề cao cho người tu luyện, tuyệt đối không thể phá mê hiển thần tích.

Tại sao Chúa Giê-su đến cuối cùng lại không giống như Thánh Moses, thanh toán những kẻ xấu bức hại Thần kia đi? Một nguyên nhân là vì Chúa từ bi, lưu lại cho những người kia cơ hội được cứu độ, một nguyên nhân khác, là lời thề nguyền của những người này định ra như vậy.

Chúa Giê Su và môn đồ bị bức hại. Sự lựa chọn của những người Do Thái đã định ra tương lai 2000 năm sau của họ Chúa Giê Su và môn đồ bị bức hại. Sự lựa chọn của những người Do Thái đã định ra tương lai 2000 năm sau của họ

Lúc bấy giờ, Đức Giê-su nói với những đại tế ti của Do Thái giáo muốn hại chết ông rằng: “Ta là con của Thượng Đế, nước của ta và con dân của ta không ở nhân gian, các người hại chết ta, tội nghiệp sẽ quá lớn, suốt đời cũng không cách nào hoàn trả.” Vậy mà đại tế ti nói: “Chúng tôi không sợ, nếu ông thật sự là con của Thượng Đế, chúng tôi nguyện ý hoàn trả, con dân của chúng tôi có thể lại bị giết, cũng có thể bị diệt quốc, không còn quốc gia!”

Những lời này không chỉ định ra tương lai của chính họ, mà còn định ra tương lai hàng nghìn năm của con cháu người Do Thái – người Do Thái hàng nghìn năm qua không có tổ quốc, bị bức hại phiêu bạt tứ xứ. Đương nhiên, trong những người Do Thái cũng có rất nhiều triệu phú giàu có, đại tài phiệt quốc tế, dùng công năng tra xét căn nguyên phúc đức của những người này, tôi thấy được lúc đó khi bức hại Giê-su, họ đều là những người Do Thái giáo ở các giai tầng khác nhau đã ra tay giúp đỡ, mặc dù họ không cứu được [Đức Giê-su] thành công, những mà đều đã tận sức rồi, phần chân niệm đó đã cảm động trời đất, nên được ban cho phúc phận, đắc được đại phúc báo.

Rất nhiều người đều muốn làm đại hảo sự để tích đại công đức. Trong nhân gian lúc bình thường chẳng có bao nhiêu đại hảo sự có thể làm, chỉ có vào lúc diệt Phật, diệt Đạo khi chính Pháp, chính Đạo đang chịu nạn, thì mới có được cơ duyên như vậy. Cơ duyên này đối với người ở các giai tầng khác nhau, thì đều là bình đẳng.

Cuộc bức hại của Nê-rô và dịch bệnh

Sau khi Đức Giê-su bị hại chết, đệ tử sứ đồ của Ông tiếp tục truyền giáo, trong suốt cuộc bức hại của Do Thái giáo, rất nhiều sứ đồ đã đánh đổi bằng mạng sống. Cuộc bức hại của Do Thái giáo và cuộc bức hại của đế quốc La Mã đan xen lại với nhau.

Năm 64 SCN, Nê-rô người đứng đầu đế quốc La Mã lệnh cho chính phủ bôi nhọ môn đồ Cơ Đốc là “môn đồ tà giáo”, kích động dân chúng La Mã hùa vào cuộc bức hại lớn của chính phủ. Một lượng lớn môn đồ Cơ Đốc bị giết, bị ném vào đấu trường, dưới ánh nhìn và tiếng hô hào của người La Mã, bị mãnh thú xé xác… còn ra lệnh cho người đem môn đồ Cơ Đốc và cỏ khô buộc cả lại, và treo ở trong sân, để làm bó đuốc trong đêm hội.

Tranh dầu “lời cầu nguyện cuối cùng của những người tử vì đạo Cơ Đốc”, đã miêu tả tình cảnh trấn áp giáo đồ Cơ Đốc tàn khốc của đế quốc La Mã: trên các cột ở xung quanh đấu trường, phía bên trái đang bị hỏa thiêu, phía bên phải là những môn đồ Cơ Đốc bị đánh chết trên giá thập tự, ở giữa là những người sắp bị mãnh thú xé xác, cầu nguyện trước khi lâm chung, chính tín bất động. Tranh dầu “lời cầu nguyện cuối cùng của những người tử vì đạo Cơ Đốc”, đã miêu tả tình cảnh trấn áp giáo đồ Cơ Đốc tàn khốc của đế quốc La Mã: trên các cột ở xung quanh đấu trường, phía bên trái đang bị hỏa thiêu, phía bên phải là những môn đồ Cơ Đốc bị đánh chết trên giá thập tự, ở giữa là những người sắp bị mãnh thú xé xác, cầu nguyện trước khi lâm chung, chính tín bất động.

Năm 65 SCN La Mã cổ đại bộc phát dịch bệnh (người đời sau có học giả cho đó là bệnh sốt rét). Năm 68, thành La Mã bạo động, Nê-rô trong khi chạy trốn đã tự sát, thọ chỉ mới 31 tuổi.

Các hoàng đế La Mã kế vị vẫn tiếp tục bức hại đối với môn đồ Cơ Đốc, họ không tin rằng bức hại tín ngưỡng sẽ mang đến ác báo cho quốc gia, nhân dân, càng không tin rằng trường dịch bệnh kia là trời đang cảnh cáo. Cơ Đốc giáo vẫn luôn bị coi là phi pháp, có địa phương trấn áp nghiêm trọng thậm chí tàn sát, cũng có quan viên mắt nhắm mắt mở. Cuộc bức hại lúc nặng lúc nhẹ kéo dài gần 300 năm, dịch bệnh nhấn chìm La Mã cũng như âm hồn bất tán.

Cuộc bức hại của Aurelius và dịch bệnh

Năm 161, Aurelius Anthony trở thành nguyên thủ của La Mã, ông ta diệt trừ giáo đồ Cơ Đốc trên toàn quốc, hạ chiếu đem gia sản của môn đồ Cơ Đốc cho người tố cáo, dụ dỗ người trên toàn quốc đi truy tìm, tố cáo môn đồ Cơ Đốc. Chính phủ dùng vô vàn các loại tra tấn, cưỡng bức môn đồ Cơ Đốc phải từ bỏ tín ngưỡng, ai không từ bỏ thì sẽ bị chém đầu hoặc ném vào đấu trường bị mãnh thú xé xác, và còn để cho khán giả xem như giải trí.

Sau khi Aurelius Anthony chấp chính được 5 năm, đại dịch giáng xuống, sử gọi là “dịch bệnh Anthony”. Theo nghiên cứu tư liệu thống kê nhân khẩu cho thấy, tỉ lệ tử vong trong dịch bệnh Anthony ước chừng 7-10%, mà ở thành thị và trong quân đội ước chừng 13-15%, Aurelius Anthony và một vị hoàng đế cùng cai trị khác cũng chết vì bệnh dịch trong khoảng thời gian đó. Đại dịch tàn phá 16 năm, đế quốc cổ La Mã đi đến suy bại.

Cuộc bức hại của Decius và bệnh dịch

Năm 249, Decius trở thành nguyên thủ của quốc gia, khởi đầu cho một lần bức hại chưa từng có trên quy mô quốc gia, ông ta hạ lệnh, lấy hình thức pháp luật để quy định ai ai cũng phải đi bái tế tượng thần của La Mã và tượng của hoàng đế La Mã, nếu không có chứng nhận đó thì sẽ bị xử chết. Bởi vì Cơ Đốc giáo quy định không thể đi bái tế Thần khác (cũng giống như “Bất nhị pháp môn” trong Phật giáo), cho nên cũng bằng như là hủy đi tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo, một lượng lớn môn đồ Cơ Đốc bởi kiên trinh bất khuất mà bị xử chết.

Đến năm sau, dịch bệnh lại lần nữa giáng xuống, Decius cũng chết vì chiến tranh. Đợt dịch bệnh này bởi vì Giám mục Cyprian của Cơ Đốc giáo có ghi chép mà được gọi là “dịch bệnh Cyprian”. Đợt đại dịch này tàn phá gần 20 năm, 25 triệu người bị chết. Vào thời kỳ đỉnh cao, thành La Mã mỗi ngày chết 5.000 người, sức chiến đấu của quân đội giảm mạnh. Nguyên thủ kế vị là Claudius II cũng bị chết vì dịch bệnh.

Lần điên cuồng cuối cùng và huy hoàng vô hạn

Năm 284, Diocletian trở thành nguyên thủ của La Mã. Vào thời kỳ đầu trị vì ông ta khá khoan dung đối với môn đồ Cơ Đốc, con rể của ông ta là Galerius lại coi Cơ Đốc giáo như kẻ thù, hai lần phóng hỏa giá họa cho môn đồ Cơ Đốc, cuối cùng đã dẫn đến cuộc đại bức hại vào năm 303 của Diocletian: Đốt hủy thư tịch của Cơ Đốc giáo, phá hủy giáo đường; tịch thu tài sản; thanh trừ môn đồ Cơ Đốc trong quân đội và quan lại; về sau trực tiếp lấy tín ngưỡng làm vạch phân chia, tin theo Cơ Đốc thì sẽ bị bắt, bị tra tấn đày đọa, không từ bỏ tín ngưỡng sẽ bị xử chết.

Sau khi điên cuồng được hai năm, sức khỏe của Diocletian suy giảm nhanh chóng, không thể không thoái vị, sau khi Galerius tiếp quản chính đế vẫn tiếp tục bức hại. Lần này là cuộc đại bức hại đi ngược với Trời, đem đến chiến loạn cho quốc gia, mà bệnh tật dường như tập trung vào thân thể của Galerius. Năm 310, Galerius mắc bệnh lạ, thống khổ vô cùng. Sử gia có ghi chép: sự dày vò tàn khốc của bệnh tật đúng như sự thống trị tàn khốc của ông ta vậy, tinh hoàn của ông ta bị nhiễm trùng hóa mủ, mọc ra cái nhọt rất lớn, dòi bâu lấy ông từ trong ra ngoài… Trên thân chỉ toàn da bọc xương như con ba ba, dưới thân phù thũng đến mức giống như một cái bánh pudding, hai chân cũng biến dạng [1]. Ác báo dày vò được 1 năm, Galerius cuối cùng tỉnh ngộ. Ông ta kêu lớn Thượng Đế quả thật có tồn tại, thật lòng hối cải, trong vùng Đông La Mã mà ông ta quản hạt đã đình chỉ tất cả bức hại đối với môn đồ Cơ Đốc, và ông đã quy y Cơ Đốc giáo. Mấy ngày sau, Galerius như trút được gánh nặng mà qua đời.

Từ năm 306-312 La Mã nội chiến, rất giống như trận chiến Huyền Vũ Môn. Ở phần trước đã phân tích, đại chiến Huyền Vũ Môn ở trên bề mặt là tranh đế vị, nhưng thâm tầng siêu xuất khỏi nhân gian ấy là cuộc chiến bảo vệ Phật Pháp Đạo Pháp, tầng bề mặt là chiến đấu nơi nhân gian, đằng sau là đại chiến giữa tầng tầng Thần và ma; còn lần hỗn chiến La Mã này, trên bề mặt cũng là tranh đoạt đế vị, nhưng thực tế là vì giải oan cho Cơ Đốc giáo mà chiến tranh, đằng sau cũng là cuộc chiến của tầng tầng Thần và ma. Sáu đế tranh hùng, cuối cùng lấy ít thắng nhiều, thu được kỳ tích, thì chỉ có duy nhất Constantine là người tin theo Cơ Đốc giáo.

Năm 313, Constantine và Licinianus cùng ký sắc lệnh Milan, triệt để giải oan cho Cơ Đốc giáo trên toàn bộ La Mã. Không lâu sau, Licinianus lại bắt đầu tấn công Cơ Đốc giáo, sau đó liền bị Constantine đánh bại. Đế quốc La Mã xuyên suốt châu Á, châu Âu, châu Phi lại trở nên nhất thống, vinh diệu thiên cổ hoàng đế dành cả cho Constantine. Giờ thì chúng ta biết rằng, đó là do Constantine giải oan cho Cơ Đốc giáo, công đức thiên đại phục hưng Cơ Đốc giáo mà có được, đó là công đức to lớn nhất trong lịch sử phương Tây.

Lời bàn: Lịch sử luôn lặp lại, ngày nay chính quyền ĐCSTQ bức hại người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Đã qua 20 năm bị bức hại, trong khi Pháp Luân Đại Pháp được đón nhận trên toàn thế giới thì chính quyền ĐCSTQ ngày càng đi đến hủ bại vì cuộc đàn áp phi nghĩa và man rợ. Hiện nay dường như cả thế giới đang chống lại lực lượng tà ác đó, âu cũng là sự vận động của lịch sử, cuối cùng Chính sẽ thắng Tà. Nhưng trong cuộc giao tranh Chính – Tà, sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cũng sẽ quyết định tương lai của mình.

Trích từ: Minh Huệ net