Câu nói nổi tiếng: “Từ xưa đến nay, các bậc thánh hiền đều cô độc” đã được lưu truyền trong một thời gian dài. Tuy nhiên, có mấy ai hiểu được ý vị chân thực của sự cô độc đó?
Trong cuốn “U song tiểu ký” có câu đối rằng: “Sủng nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc; Khứ lưu vô ý, vọng thiên không vân quyển vân thư”, nghĩa là:‘Không quan tâm điều hơn lẽ thiệt, ngắm trước sân hoa nở hoa tàn; Tùy ý ra đi hay ở lại, nhìn khung trời mây tụ mây tan’.
Câu đối này đã nói lên cảnh giới siêu phàm thoát tục của các bậc cao nhân: Nếu có thể xem vinh nhục cũng nhẹ nhàng như đóa hoa sớm nở tối tàn, thì mới có thể giữ cho nội tâm được bình lặng.
Và nếu có thể xem công danh lợi lộc đến rồi đi cũng thất thường như mây tụ mây tan, thì mới có thể giữ nội tâm được vô vi thanh tịnh. Do đó, được mà không hoan hỉ, mất cũng không ưu phiền, vinh mà không kinh động, nhục cũng không bận lòng.
Lý Bạch, người được coi là bậc “thi tiên” đắc Đạo, từng để lại hai câu thơ trong bài “Thương tiến tửu” như sau: “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch; Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh”. Tạm dịch: ‘Thánh hiền xưa nay đều tịch mịch; Chỉ phường thánh rượu mới lưu danh’.
Vì sao các bậc thánh hiền tự cổ chí kim đều “tịch mịch”? Ấy là bởi họ đã coi nhẹ mọi sự trên thế gian, lánh xa cõi hồng trần ô trọc để tâm thái tĩnh lặng tựa mặt hồ.
Danh, lợi và tình rất dễ khiến con người ta bị sa ngã. Nhưng những bậc Thánh nhân sẽ không lạc vào trong những vùng vẫy bất tận này. Trong dòng chảy cuộc đời, họ vẫn giữ được sự liêm chính và không chấp nhận hạ thấp bản thân mình, vậy nên thỉnh thoảng khó tránh sự đơn độc.
Trong quá khứ, Bồ Đề Đạt Ma đã ngồi quay mặt vào vách đá hết 9 năm trước khi ông khai ngộ. Những vị Giác Giả như thế sẽ không bị ảnh hưởng bởi những ảo tưởng trong thế giới con người; cũng sẽ không chạy theo những sở thích tầm thường hay những vui sướng nhất thời. Họ là những người quyết tâm theo đuổi ý nghĩa chân chính của cuộc đời.
Mọi thứ trong thế gian này chỉ là tạm bợ, không trường tồn. Do đó, bậc trí giả không bao giờ coi hạnh phúc, đau khổ, được và mất là quan trọng. Họ hiểu rằng “vạn sự vạn vật đều có nhân duyên”. Tuy nhiên, vì họ có những cách nhìn khác biệt về mọi sự trên thế gian, trong con mắt của người thường, những bậc trí giả này dường như thật khác thường và cô đơn.
Lão Tử có câu: “Thượng thiện nhược thủy”, ý rằng cảnh giới cao nhất của cái thiện cũng giống như nước vậy. Chỉ có những bậc cao nhân khi đã thấu hiểu mọi sự trên đời, minh tỏ mọi lẽ thế gian mới có thể điềm nhiên mà đối mặt với tất cả.
Trung Quốc cổ xưa có rất nhiều bậc cao nhân như thế. Ví như Đào Tiềm trồng hoa cúc và hoa sen. Lý Bạch uống rượu và thưởng thức ánh trăng. Tô Thức chợp mắt trên chiếc giường mây.
Còn ở Việt Nam, Nguyễn Trãi lui về ở ẩn, làm bạn với thiên nhiên: “Láng giềng một áng mây bạc, Khách khứa hai ngàn núi xanh”. Nguyễn Bỉnh Khiêm lánh đời, xa rời nơi thế sự: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ; Người khôn, người đến chốn lao xao”…
Thế gian náo nhiệt, cuộc sống tưng bừng, hết thảy mọi vật đều lôi cuốn con người ta vào cái vòng xoáy bất tận mà không thể nào thoát ra được.
Trăm năm trôi qua trong nháy mắt, đến khi mọi sự qua đi rồi con người ta mới nhận ra rằng tâm hồn mình đã bị che mờ bởi bụi hồng trần, bị chất nặng bởi những cám dỗ trong thế giới vật chất này.
Trong sự hỗn loạn ấy, chỉ có tâm tĩnh lặng của các bậc thánh nhân mới có thể vượt lên cái si mê cuồng dại của con người thế gian.
Theo Tinh Hoa
>> Điều Kỳ Diệu này có thể bạn chưa biết