Mỗi khi đến ngày hè nắng nóng, chúng ta thường có thói quen sử dụng điều hòa, bật quạt cả ngày lẫn đêm, nếu không thì không thể chịu nổi. Vậy vào thời cổ đại, mùa hè không có máy điều hòa, không có tủ lạnh, thậm chí không có quạt điện, ngày tháng ấy họ sống như thế nào?
Khảo cứu rất nhiều tư liệu, chúng ta lại càng thêm kính nể trí tuệ của người xưa. Sự thật là trong khoảng thời gian 5000 năm không có máy điều hòa, cuộc sống của cổ nhân vẫn rất thanh thản dễ chịu. Chúng ta cùng xem qua vài tuyệt chiêu tránh nóng vào thời xa xưa.
1. Dựa vào hoàn cảnh tự nhiên
Thời Bắc Tống, trong cuốn “Hạ Nhật” của Cát Nguyên Hoài có ghi lại: “Dưới tán cây thường râm, gió cạnh nước là mát nhất”. Ở cạnh sông ngòi tự nhiên sẽ mát mẻ, cho nên mỗi dịp đến mùa hè, các quý tộc trong hoàng cung cũng di chuyển đến nơi có non xanh nước biếc mà nghỉ mát.
Ví dụ như triều đại nhà Thanh, bên ngoài Tử Cấm Thành có Tây Uyển, Nam Uyển, Sướng Xuân Viên, Viên Minh Viên được gọi là “Hạ Cung”, còn có sơn trang Thừa Đức là nơi nghỉ mát nổi tiếng nhất.
Dân chúng cũng biết đi vào rừng dưới tán cây mà hóng mát, thả câu, chèo thuyền du ngoạn, thưởng thức phong cảnh, thuận tiện ngâm thơ đối câu.
Dưới cái nóng của mùa hè, quý tộc hoàng cung sẽ chuyển đến nơi có non xanh nước biếc, trong hình là sơn trang nghỉ mát Thừa Đức. (Ảnh: Wikimedia)
2. Sử dụng vật liệu mát mẻ cho giường ngủ
Thời cổ đại có rất nhiều ghi chép về việc dùng đá làm giường, trên giường còn dùng gối bằng sứ, trên mặt gối có thêm một lớp men sứ, khi nằm ngủ sẽ thấy mát lạnh. Triều đại Nam Tống, Lý Thanh Chiếu từng ghi lại trong “Túy hoa âm”: “Ngọc chẩm sa trù, bán dạ lương sơ thấu”, ý rằng gối ngọc màn the, nửa đêm lạnh thấu.
Nếu muốn thoải mái thêm một chút, trên giường cũng có thể trải chiếu. Tương truyền vào thời nhà Đường, các quý tộc trong cung sử dụng chiếu làm bằng ngà voi. Người dân thì thường dùng lá cỏ lau hoặc tre trúc để dệt thành chiếu, vừa tiện nghi lại dễ sử dụng, thói quen này vẫn duy trì cho tới hôm nay.
Thời cổ đại sử dụng gối sứ và chiếu ngà voi để cho giấc ngủ mát mẻ thoải mái dễ chịu. (Ảnh: Epoch Times)
3. Thiết kế kiến trúc phù hợp
Các ngôi nhà cấp bốn thời xưa ở Bắc Kinh đều rất đáng nghiên cứu, nhà ở phía Bắc, hướng phía Nam, để phòng ngừa bị ánh nắng chiếu rọi. Hơn nữa nóc nhà và tường đều rất dày, mùa đông có thể chắn gió tránh rét, mùa hè có thể ngăn cản khí nóng.
Sau khi nhà Minh dời kinh đô về Bắc Kinh, mái hiên trong cung có chiều dài và góc độ đều được thiết kế một cách thống nhất, để mùa hè trước sau đều có thể che nắng, đến mùa đông trước sau ánh sáng mặt trời rọi khắp phòng, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát.
Còn có một căn phòng được thiết kế chuyên dùng cho việc nghỉ mát, ví dụ như triều Hán có điện Thanh Lương; nhà Thanh có điện “Thủy mộc minh sắt”. Theo các ghi chép, những người thợ lành nghề đã chế tạo ra một loại quạt gió giống như xe nước, gọi là “quạt gió chạy bằng nước”, mượn sức nước để đẩy cánh quạt của bánh xe chuyển động, tạo gió trong phòng.
Những người thợ thủ công cổ xưa chế tạo một cái bánh xe mượn sức nước để đẩy cánh quạt của bánh xe chuyển động, tạo gió trong phòng.
Còn có phương pháp dẫn nước lên trên mái hiên, để cho nước chảy xuống tự nhiên, xung quanh phòng tạo thành các rèm nước, giống như mưa rơi vậy, hơn nữa lại có hiệu quả hạ nhiệt rất tốt.
4. Đào đất sâu ba thước
Còn có một biện pháp gọi là “đào sâu ba thước”. Bởi vì tầng nông ở dưới mặt đất có nhiệt độ tương đối ổn định, cho nên có thể đạt được mùa đông ấm, mùa hè mát một cách tự nhiên.
Bởi vậy thời Tiên Tần lưu hành những căn phòng dưới đất, giống huyệt động vậy. Thời Minh cũng có “giếng điều hòa”, ở ngay trong nhà đào một cái giếng rất sâu, bên trên dùng nắp có lỗ đạy lại cẩn thận, mùa hè thì có hơi lạnh từ dưới mặt đất đi lên.
Vào triều Minh, văn sĩ Cao Liêm trong “Tuân sinh bát tiên” có miêu tả: “Biệt thự Hoắc đô, trong một căn nhà đào bảy cái giếng, đều được điêu khắc, dùng bàn đậy lên. Vào mùa hè, bảy cái giếng đem đến hơi lạnh, không còn biết đến thời tiết nóng”.
Hơn nữa, giếng điều hòa ngoài việc có thể hạ nhiệt độ phòng, còn có thể giống như “tủ lạnh” ở dưới mặt đất, có thể trữ băng để ướp lạnh thực phẩm ở trong giếng.
Ngoài việc làm mát phòng, giếng điều hòa không khí cũng có thể phục vụ như một “tủ lạnh” dưới lòng đất.
5. Trữ băng từ mùa đông phục vụ mùa hè
Thời cổ đại không biết cách làm nước đá, nhưng họ biết cất giữ băng tuyết từ mùa đông để sử dụng cho mùa hè. Nhà Chu trong “Chu Lễ” ghi chép về một chức vụ chuyên môn quản lý việc cất giữ băng. Đến thời Minh – Thanh, việc sử dụng băng đã trở nên rất phổ biến, trong “Đại Thanh hội điển” có ghi chép rằng xung quanh Tử Cấm Thành có 18 căn hầm băng.
Hơn nữa, Trung Quốc đã có tủ lạnh nguyên thủy từ rất sớm, như thời Chiến quốc trong số văn vật được đào lên có đồ đựng băng bằng đồng đen, về sau còn có các loại tủ lạnh càng ngày càng tinh xảo, không những có thể dùng để trữ lạnh thức ăn, còn có thể làm giảm nhiệt độ phòng, giống một cái điều hòa di động.
Thời cổ đại dùng hầm băng cất giữ băng.
6. Đồ uống lạnh
Đã có băng thì các loại đồ uống ngọt lạnh không khó làm nữa, ví dụ như rượu gạo với băng, nước ô mai, chè ngân nhĩ hạt sen, hạnh nhân đậu hũ,… rất phong phú.
Tuy nhiên, người xưa tôn sùng nhất là phương pháp giải nhiệt dựa vào điều tiết sự cân đối trong cơ thể, ví dụ như ăn các loại dưa hấu, mướp đắng, dưa leo, đậu xanh, đều có công hiệu thanh nhiệt.
Thời cổ đại có hạnh nhân đậu hũ và đủ loại đồ uống ngọt lạnh.
7. Trung y
Thời nhà Minh, đại y học gia Lý Thời Trân trong “Bản thảo cương mục . Hạ băng” có ghi chép lại: “Bệnh thương hàn dương độc, người nóng quá hôn mê, dùng một cục băng đặt ở Thiên Trung”. Huyệt Thiên Trung nằm ngay chính giữa ngực.
Hàng năm trước tiết Đoan Ngọ, các ngự y trong nội cung sẽ ra đơn thuốc Trung y giải nhiệt, thêm vào thức ăn mà dùng, để phòng ngừa bệnh, còn chế tạo một thỏi thuốc đề phòng trúng gió, có thể treo lên quạt để đem theo bên mình.
8. Thức ăn nóng
Trong “Bản thảo cương mục” có ghi lại: “Trà, khổ, cam, có tính hàn, không độc, giúp khỏi đàm nhiệt, giải khát, giải đầy hơi, tiêu thức ăn”.
Những người Trung Quốc lớn tuổi một chút bất kể là xuân hạ thu đông đều uống nước nóng, điều này rất có đạo lý. Mùa hè uống trà nóng có thể hạ nhiệt bài độc, ăn thức ăn nóng vào thì vã mồ hôi, từ đó tống khứ khỏi cơ thể những tích tụ do nhiệt khí và ẩm tà, sau đó lại tắm nước nóng một lần, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái vô cùng.
Người xưa thường uống nước nóng vào mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông.
9. Tâm yên tĩnh tự nhiên thấy mát mẻ
Tâm yên tĩnh khiến cho người tự nhiên cảm thấy mát mẻ, đạo lý này hẳn mọi người đã nghe qua. Thi sĩ đời Đường Bạch Cư Dị có đoạn thơ: “Người người tất bật đi nghỉ mát; Duy chỉ có thiền sư không ra khỏi phòng; Không phải thiền phòng không bị nóng; Là người tâm yên tĩnh thân tự mát”.
Liệu chuyển biến về tâm thái có thể ảnh hưởng tới thân thể? Xã hội phương Tây đã dùng phương pháp khoa học để chứng thực; người Trung Quốc thường nói “phát hỏa”, nổi giận ảnh hưởng tới gan, thực sự rất có đạo lý. Những mặt trái cảm xúc của con người đều khiến thân thể biểu hiện ra những trạng thái bất thường như tức giận, kiêu ngạo, xem thường, đố kỵ,… sẽ làm cho nhiệt độ cơ thể tăng lên. Nếu như có thể bảo trì một tâm tính bình thản, tĩnh lặng, thì thân thể tự nhiên sẽ mát mẻ.
Triều đại nhà Thanh có Hoàng đế Khang Hy rất chú trọng tu thân dưỡng tính, những ngày hè nóng nực ông không dùng quạt, không bỏ mũ, thậm chí không cần mở cửa sổ, bởi vì nội tâm thanh tịnh, cũng không cảm thấy nóng. Hơn nữa ông còn nói mùa hè không thể cứ cầu sự mát mẻ, nhiệt khí của ngày hè bị phong tỏa trong thân thể, không nên phát ra, bởi sẽ làm cho dạ dày không được điều hòa vào mùa thu.
Lấy câu thơ của Ôn Cách văn sĩ triều Tống trong “Tỏa toái lục” để làm kết bài: “Tránh nóng có diệu pháp, không phải ở cạnh suối đá. Tâm yên tĩnh vô sự, thì tự nhiên cảm thấy mát lạnh như ở trên núi”.