Tiếp theo phần 1

II. Làm thế nào chứng minh có Thần tồn tại?

Bạn không nhìn thấy Thần nhưng có người đã từng thấy

Có người nói khoa học không chứng minh được rằng Thần không tồn tại, vậy thì cũng không chứng minh được có Thần tồn tại. Thần ở đâu? Nhìn thấy Thần thì tin, không trông thấy Thần thì không tin, vậy có gì sai hay sao? Những điều mà con người thấy được và nghe được bằng giác quan của mình chỉ trong phạm vi rất nhỏ hẹp của quang phổ và thanh phổ, dù cho được máy móc trợ giúp thì cũng chỉ mở rộng phạm vi hiểu biết của con người hơn một chút mà thôi. Con người không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy được quang phổ, thanh phổ ở vi quan và hồng quan hơn. Ví dụ, khoa học hiện đại nhờ vào sự trợ giúp của máy móc chỉ có thể quan sát được 5% vật chất trong toàn vũ trụ, các nhà khoa học không thể trông thấy được 95% vật chất còn lại, [nên gọi đó là “vật chất tối”]. Tuy không nhìn thấy được vật chất tối nhưng giới khoa học vẫn thừa nhận sự tồn tại của nó, con người tuy không nhìn thấy được tư tưởng của mình, nhưng con người ai cũng có tư tưởng. Do vậy, thứ mà con người không nhìn thấy không có nghĩa là nó không tồn tại.

Trong truyện Thiên Tiên Phối, Đổng Vĩnh và Thất Tiên Nữ cùng bái lạy dưới gốc cây hòe, nhờ cây hòe chứng giám cho hôn ước của họ, rất nhiều người cho rằng đó là câu chuyện thần thoại. Nhưng khoa học thực nghiệm đã chứng minh rằng thực vật không những có cảm tình, có thể nhận thức con người, có ký ức, mà còn có ngôn ngữ để trao đổi với nhau, còn có thể biết được trong tâm con người suy nghĩ gì. Nếu đúng như vậy thì tại sao cây hòe trong truyện Thiên Tiên Phối lại không thể chứng giám cho hôn ước của đôi trai gái được chứ? Tại sao lại coi đây chỉ là câu chuyện thần thoại? Mặc dù khoa học hiện đại không thể thấy được mắt, đại não, hệ thần kinh của thực vật nằm ở đâu, không biết làm thế nào chúng có được những khả năng như vậy, nhưng lẽ nào có thể dựa vào đó mà nói rằng thực vật không có mắt, đại não và hệ thần kinh chứ?

Thần thoại không phải là những câu chuyện cổ tích. Mẹ của Lão Tử là Huyền Diệu Vương Nữ Doãn Thị, khi đang ngủ ban ngày thì trông thấy hạt châu ngũ sắc rơi từ trên trời xuống, bèn cảm tạ mà nuốt vào, tỉnh dậy thấy mang thai, sau đó hạ sinh Lão Tử. Trong Sử ký có ghi chép lại: “Mẹ của Bao Tự, người gây họa phóng hỏa đùa giỡn với các nước chư hầu, cũng không kết hôn mà có mang, sinh hạ Bao Tự”. Con người dùng khoa học hiện đại để nhận thức thì cho rằng điều này không thể tin được, đều là những câu chuyện thần thoại do con người thêu dệt nên. Nhưng những câu chuyện thần thoại “hoang đường” như thế này vẫn xảy ra ngày nay. Hồ sơ mật của Liên Xô cho biết Tereshkova cùng bốn nữ phi hành gia Liên Xô khác sau khi bay vòng quanh trái đất trong hai tháng trở về đã mang thai tập thể. Đứa trẻ đầu tiên được mang thai ngoài không gian sinh ngày 25 tháng 07 năm 1991 tại Liên Xô, các nhà khoa học nói rằng thai kỳ của đứa trẻ này ngắn hơn nhiều so với thai kỳ bình thường. Nghe nói đứa trẻ này một tháng đã biết ngồi, xoay người và có thể nói những câu đơn giản. Dùng khoa học hiện đại mà lý giải thì điều này không thể xảy ra, nhưng câu chuyện “hoang đường, vô lý” này lại là sự thật. Lẽ nào chỉ vì không nhìn thấy mà chúng ta coi những câu chuyện thần thoại lưu truyền trong lịch sử nhân loại đều là những câu chuyện cổ tích sao?

du-ngon-cua-Than

Giới y học ngày nay phát hiện rằng phía trước thể tùng quả trong não người có một con mắt, nó có đầy đủ kết cấu tổ chức của một con mắt người, bởi vì nó nằm trong sọ não người nên giới khoa học cho rằng đó là một con mắt thoái hóa. Nhưng giới tu luyện lại không nhận thức như vậy, họ gọi đó là thiên mục, trong tôn giáo gọi đó là con mắt trí huệ, nó có thể nhìn thấy những thứ mà rất nhiều người không nhìn thấy. Trang Tử nhìn thấy cá biết suy nghĩ, biết vui đùa, bạn bè ông không trông thấy nên cười nhạo Trang Tử; Doãn Hỷ trông thấy khói tím từ phía đông bay đến, nên vẩy nước quét ngõ nghênh đón Lão Tử, đắc được Đạo đức kinh; Trường Tang Quân đưa cho Biển Thước một quyển sách y học và một túi thuốc, Biển Thước uống thuốc 30 ngày sau liền có thể nhìn được xuyên qua tường, nhìn thấu cơ thể người. “Biển Thước thương cung liệt truyện” trong Sử ký ghi chép lại Biển Thước bốn lần gặp Tề Hoàn Hậu, nhìn thấy quá trình cơ thể Tề Hoàn Hậu phát bệnh, Tề Hoàn Hầu nói rằng ông không có bệnh, lại cho rằng Biển Thước muốn mua danh chuộc lợi. Tề Hoàn Hậu không nhìn thấy, các cung nữ, đại thần trong cung cũng không nhìn thấy, hầu hết mọi người đều không nhìn thấy, nhưng không có nghĩa là tất cả mọi người đều không nhìn thấy. Kết quả là Tề Hoàn Hầu chết oan chỉ vì không thấy nên không tin.

Trên bia văn “Du Phổ Đà trí kỳ” do Tôn Trung Sơn sáng tác có kể về việc ngày 15 tháng 8 năm thứ năm Dân Quốc, ông cùng Hồ Hán Dân, Đặng Man Thạc, Chu Bội Dân đi du ngoạn đến núi Phổ Đà, lên đến đỉnh núi Phật Đỉnh, từ trên cao nhìn ra xa, thoáng cái có cảm giác vũ trụ ở trong lòng bàn tay. Nhìn khắp bốn phương, Tôn Trung Sơn thấy xa xa phía trước ngôi chùa có một cổng chào sừng sững, xung quanh đầy hoa thơm, đẹp như một tấm lụa, cành lá phất phơ theo gió, khung cảnh vô cùng diễm lệ. Lại có 10 vị tăng nhân lặng lẽ đứng xem, dường như đang chờ đợi vị khách từ phương xa. Lại thấy một bánh xe đang xoay tròn chuyển động rất nhanh, không biết nó làm bằng chất liệu gì. Khi Tôn Trung Sơn còn đang mải suy nghĩ xem bánh xe tròn kia làm thế nào mà chuyển động được thì đột nhiên cảnh tượng trước mắt biến mất không dấu vết. Tôn Trung Sơn hỏi những người đi cùng xem có ai nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ đó không, mọi người đều nói là không thấy.

Không có Thần thì Noah sao có thể tạo được con thuyền cứu nạn, không có Thần thì Moses làm thế nào đưa được người Israel ra khỏi Ai Cập, làm thế nào truyền 10 điều răn cho người Israel? Kỳ thực rất nhiều cao tăng, Đạo sỹ tu hành đều nhìn thấy Thần Phật, chỉ có điều con người không tin mà thôi.

Đã ai từng trông thấy ba vị Bồ Tát là Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm trong thần thoại chưa? Có người đã nhìn thấy. Trong Ấn Quang đại sư văn sao toàn tập có viết câu chuyện do Đường Huyền Trang ghi chép lại: nước Thiên Trúc ở Tây vực (Ấn Độ) có một vị Giới Hiền Luận Sư, là người đức cao vọng trọng nổi tiếng ở Tây Thiên Trúc. Một năm nọ ông mắc bệnh nặng, đau đớn cùng cực, không thể chịu đựng nổi, khi đang muốn tự vẫn để mong giải thoát thì đột nhiên trông thấy ba vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm đến nói với ông rằng: “Trong kiếp trước ông đã từng nhiều lần làm quốc vương, làm rất nhiều điều ác bức hại bách tính, lẽ ra phải bị đưa vào ác đạo (địa ngục, quỷ đói, súc sinh được gọi là ác đạo), chịu khổ nạn lâu dài, nhưng do ông có duyên hồng dương Phật Pháp, nên được miễn tội phải vào địa ngục, chuyển nó thành khổ nạn nhỏ nơi nhân gian để ông phải chịu đựng. Ba năm sau, một vị tăng nhân nước Đại Đường tên là Huyền Trang sẽ đến đây bái ông làm thầy, cầu thụ Phật Pháp.” Vậy nên Giới Hiền Luận Sư nhẫn chịu đau khổ, thành tâm sám hối, cuối cùng khỏe mạnh trở lại. Ba năm sau, pháp sư Huyền Trang quả nhiên đến gặp ông bái sư cầu Pháp.

Ai đã từng đến thế giới Cực Lạc, ai đã từng thấy Phật Ai Di Đà? Có vẻ như đó đều là những câu chuyện thần thoại do con người tạo ra. Thế nhưng có người đã từng đến, cũng đã từng thấy Phật. Trong tôn giáo có một cuốn sách nhỏ tên là Tây phương cực lạc thế giới du ký, kể rằng vào thời cách mạng văn hóa, hòa thượng Khoan Tịnh người huyện Đức Hóa, tỉnh Phúc Kiến khi đang ngồi thiền trong một sơn động thì nguyên thần ly thể, được Bồ Tát Quán Âm dẫn đến thế giới Cực Lạc. Sau khi đến thế giới Cực Lạc, ông được thăm quan động La Hán, cõi Đao Lợi, cõi Đâu Suất và cửu phẩm liên hoa (tòa tháp hoa sen chín tầng), đồng thời được bái kiến Phật A Di Đà. Hết một ngày quay về nhân gian đã thấy sáu năm trôi qua. Trên đường đến thế giới Cực Lạc, Quan Âm Bồ Tát còn nói với hòa thượng Khoan Tịnh về kiếp trước của ông cùng người thân, sau khi Khoan Tịnh quay về nhân gian, quả thực đã chứng kiến những chuyện như vậy, không sai lệch chút nào.

Chúng ta không nhìn thấy Thần, rất nhiều người cũng không nhìn thấy Thần, nhưng không có nghĩa là tất cả mọi người đều không nhìn thấy Thần. Con người không trông thấy vật chất tối nhưng khi các nhà khoa học nói rằng nó có tồn tại thì bạn lại tin, vậy thì sư phụ của Đường Tăng nhìn thấy Thần Phật, hòa thượng Khoan Tịnh nhìn thấy Phật A Di Đà, tại sao bạn lại không tin?

Những thần tích về chứng quả của người tu hành là minh chứng cho sự tồn tại của Thần

Hóa thành cầu vồng:

Năm 1952 ở Đức Cách Ích Long Nhân, Tây Tạng, đức lạt ma Tác Nam Lãng Kiệt đã hóa thành cầu vồng, lúc đó bí thư khu tự trị Tây Tạng là Trương Quốc Hoa đã chứng kiến tận mắt sự kiện kỳ lạ này; các tăng nhân khác trong chùa ngồi xung quanh đức Phật sống, Phật sống ngồi tĩnh tọa, sau khi hô lớn ba tiếng thì chỉ thấy một áng mây hồng bay đi, còn Phật sống thì biến mất.

Trưa ngày 29 tháng 08 năm 1998, tại chùa Lỗ Mộc Nhiêu thuộc huyện Châu Tân Long, khu tự trị dân tộc Tạng, Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, tôn giả A Khúc 81 tuổi nhập Niết Bàn trong tư thế ngủ cát tường. Lúc 7:00 giờ tối ngày hôm đó, người hầu cận mặc pháp y cho tôn giả, phát hiện thấy da của tôn giả đã hoàn toàn trở nên hồng hào, mịn màng như đứa trẻ bảy, tám tuổi. Thân thể ngài trong bộ pháp y ngày càng thu nhỏ lại. Vào buổi sáng sớm ngày thứ tám, họ phát hiện ra trong bộ pháp y không còn gì cả, ngay cả móng tay và tóc của ngài cũng không còn, hoàn toàn biến thành cầu vồng; sự kiện này đến nay vẫn còn được ghi chép rõ ràng trong cuốn Đa Mang tự chí của đức lạt ma Đức Ba.

Chùa Đa Mang thuộc huyện Châu Lô Hoắc, Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên được xây dựng vào năm 1653, trong chùa đã có tổng cộng 16 vị hòa thượng hóa thân thành cầu vồng, trong đó có ba vị toàn bộ thân thể hóa hết, có người còn lưu lại một chút tóc và móng tay. Theo ghi chép trong sách Kháp Trát Tang Cát Đa Cát Trước, vào những năm Mật Pháp hồng truyền hưng thịnh, vùng Tây Tạng đã 100.000 người tu hành hóa thân thành cầu vồng.

Bạch nhật phi thăng:

Hứa Tốn là một Đạo sỹ trứ danh triều nhà Tấn, tại Dự Trương và vùng lân cận có rất nhiều câu chuyện lạ truyền kỳ về việc Hứa Tốn dựng trụ sắt trấn ma, giết rắn trừ hại cho dân. Ngày 15 tháng 08 năm thứ hai Ninh Khang (năm 374) tại Đông Tấn, cả nhà Hứa Tốn bay lên trời, gà chó cũng bay hết. Trong Hiếu đạo ngô hứa nhị chân quân truyền viết: “Ngày Hứa Tốn thăng thiên, dân chúng khắp nơi tụ hội đến xem, Thiết Hoàng Lục ăn chay”.

Xá lợi tử:

Rất nhiều cao tăng sống trăm tuổi, sau khi hỏa táng đều có những viên xá lợi tử rực rỡ sắc màu, hạt xá lợi từ xương ngón tay của Phật Thích Ca Mâu Ni đến nay vẫn còn được lưu giữ tại chùa Pháp Môn. Trong khi tu luyện khai ngộ trong Pháp Luân Đại Pháp, có rất nhiều đệ tử đạt tiệm ngộ, người xuất gia tu luyện Pháp Luân Đại Pháp cũng xuất hiện những kỳ tích: hai vị cao tăng ở chủa Bàn Nhược, Trường Xuân (Ni cô am) pháp hiệu trụ trì là Tịnh Không, hơn 80 tuổi, bị trúng gió nên liệt nửa người, từ năm 1994 bà bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công, sức khỏe hồi phục rất nhanh, hai năm sau bà viên tịch trong tư thế ngồi đả tọa, khi hỏa táng xuất hiện năm viên xá lợi tử ngũ quan thập sắc. Các ni cô đều nói: người ta thực sự có thể tu thành viên mãn trong Pháp Luân Đại Pháp, đây là điều chúng tôi chính mắt nhìn thấy nên chúng tôi tin.

Nhục thân không hủy:

Cao tăng Tuệ Năng nổi tiếng thời nhà Đường của Trung Quốc, nhục thân của ngài sau khi viên tịch đã không hề mục nát sau cả ngàn năm cho đến ngày nay.

Kim Kiều Giác trên núi Cửu Hoa viên tịch trong tư thế ngồi xếp bằng vào năm 794, ba năm sau mở hộp đá ra, nhục thân của Kim Tăng vẫn hồng hào như còn sống, chân tay mềm mại, khớp xương có âm thanh.

Vào thời nhà Minh, pháp sư Vô Hà viên tịch ở tuổi 110, chúng tăng đưa nhục thân của Vô Hà trong tư thế ngồi xếp bằng vào chum, ba năm sau mở chum ra, nhục thân vẫn nguyên vẹn, sắc diện hồng hào như còn sống.

Trong Xuất Ai Cập ký viết, dưới sự trợ giúp của Thần, Moses và người dân Do Thái đã vượt qua đươc 10 tai họa, cuối cùng phải nhờ thần tích “vượt qua biển Đỏ” Pharaoh mới cho người Do Thái được tự do ra khỏi Ai Cập. Khi quân đội Ai Cập truy kích những người Do Thái, Thần đã rẽ nước Biển Đỏ để giúp người Do Thái đi qua.

Hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, trong cuốn Kinh Kim Cương được bảo tồn tại một ngôi chùa ở Hàn Quốc viết: “Khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ đến”. Theo Pháp Hoa văn cú quyển 4 Kinh Phật: “Hoa Ưu Đàm mang đến phúc lành, ba ngàn năm mới nở một lần, khi xuất hiện thì ắt có Kim Luân Vương xuất thể.” Trong quyển 8 Tuệ Lâm Âm nghĩa chỉ rõ: “Hoa Ưu Đàm Bà La mang điềm lành linh dị, chính là loài hoa của Trời, không có tại thế gian, nếu Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện tại thế gian, đó là đại phúc đức, thì loài hoa này cảm động mà xuất hiện.” Năm 1997, các phương tiện truyền thông của Hàn Quốc lần đầu đưa tin tại chùa Thanh Khê xuất hiện hoa Ưu Đàm, tiếp đó ở Trung Quốc đại lục và khắp nơi trên thế giới đều có hoa Ưu Đàm khai nở, báo hiệu Thần đã trở lại.

Thần tích của Phật Thích Ca Mâu Ni:

Một hôm ngài đến ngụ trong đền thờ Thần Lửa của ba anh em nhà Ca-diếp và dùng thần thông thu phục rồng lửa canh giữ đền. Ba anh em Ca-diếp và 500 đệ tử đều quy y Ngài. Rất nhiều đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có thần thông, một người tên là Ni Đề có thể tự do ra vào một tảng đá, hay Mục Kiền Liên, Liên Hoa Sắc đều có thần thông, đệ tử đời thứ 28 của Thích Ca Mâu Ni là Đạt Ma có thể dùng một cọng lau để qua sông.

Thần tích của Chúa Jesus được ghi chép lại trong Thánh Kinh:

Ông đã làm được nhiều việc mà con người không thể làm được, ông chữa bệnh cho mọi người: mắt mù, què chân, tai điếc, thậm chí giúp cho một số người chết đi sống lại. Năng lực của ông rất siêu việt: từ không trung mà tạo ra cây cối, cứu đói cho hàng nghìn người.

Thần tích của Pháp Luân Đại Pháp:

Sức truyền bá rộng rãi: Pháp Luân Đại Pháp chỉ trong thời gian ngắn ngủi bảy năm sau khi công khai truyền ra công chúng đã có đến hơn 100 triệu người tu luyện.

Thần tích trong chữa bệnh: sáu cuộc điều tra trong và ngoài nước đều cho thấy khả năng chữa bệnh kỳ diệu của Pháp Luân Công, trong kết luận báo cáo điều tra của tổng cục thể thao quốc gia viết: “Hiện tượng đặc biệt về sự xuất hiện của những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đã vượt rất xa phạm trù mà y học hiện đại có thể nhận thức được.”

Những thần tích về đuổi phụ thể: chỉ cần chân chính tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thì tất cả những phụ thể đều bị thanh lý.

Thần tích về chính tín của người tu luyện: học viên Pháp Luân Công đối mặt với cuộc đàn áp tàn khốc của đảng cộng sản Trung Quốc, đối diện với cái chết, nhà tù, tra tấn, mổ cướp nội tạng, tẩy não, suốt 17 năm qua họ vẫn kiên trì một niềm tin vào Chân-Thiện- Nhẫn, kiên trì kháng nghị hòa bình, kiên trì truyền bá chân tướng để cứu người.