Trên thế gian đôi khi chúng ta có thể bắt gặp một vài người mặc y phục hòa thượng, mang áo choàng Đạo sỹ đang học Đại Pháp. Bài viết này lấy ví dụ một người trong số họ, kể một chút quá trình tìm Pháp không dễ dàng của vị ấy. 

Vào khoảng cuối triều Nguyên đầu triều Minh, nhân vật chính trong bài viết này là Nhân Hưng, có một đời chuyển sinh tại thị trấn Uy Hải thuộc tỉnh Sơn Đông, thời điểm ấy gia đình cậu rất giàu có, lại có thân quyến làm quan trong triều đình. Cậu từ nhỏ đã rất thông tuệ, lại hiểu chuyện, cũng vô cùng thiện lương. Sau này thời thế hỗn loạn, cậu lớn lên cũng bị tiêm nhiễm bởi mấy kẻ hư hỏng, dần dần trở thành một kẻ hư hỏng chơi bời lông bông, lang thang lêu lổng, nguy hiểm hơn là cậu thường theo đám bạn xấu lui tới sòng bạc, kỹ viện, cả ngày vô công rồi nghề. Cha mẹ cậu trong tâm rất lo lắng, nhưng cũng hết cách. 

Một lần, cậu cùng hai người bạn đến tửu quán uống rượu, đang uống thì có một người trong số họ đột nhiên lên cơn co giật, không lâu sau giã từ nhân thế. 

Cảnh tượng phát sinh ngay lúc này làm cậu phải suy nghĩ sâu sắc: Cho dù người ta sớm tối đắm chìm trong tửu sắc cũng khó tránh được cái chết, thật là bi ai!

Sau đó cậu gặp được một cô gái xinh đẹp, tiếp xúc một thời gian cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Cậu gửi sính lễ xong xuôi, đang lúc vui mừng hớn hở chuẩn bị rước cô dâu về nhà thì cả gia đình cô gái bỗng dưng “mất tích”. Hỏi thăm hàng xóm láng giềng xung quanh, họ đều nói rằng không biết rõ lắm về gia đình này. 

“Dưới gầm trời rộng lớn này biết đến đâu để tìm gia đình họ đây! Hơn nữa huống hồ cô ấy nhất định là ‘cố ý’ mất tích. Cho dù có tìm được người về, thì tấm lòng chân thành ấy liệu có thể tìm lại hay không?” Nghĩ đến đây Nhân Hưng cũng chẳng còn hứng thú gì nữa.

Chuyện tình cảm không được như ý làm cậu cảm thấy nhân gian có rất nhiều chuyện sao mà hư ảo và vô thường. Bản thân mình đối với người khác có chân thành đến đâu thì người ấy cũng không nhất định sẽ trân quý mình. 

Sống phóng túng nhiều năm như vậy khiến cậu cảm thấy tinh thần trống rỗng, cảm thấy đời người chẳng qua là tận hưởng thú vui trước mắt mà đi đến cuối đời rồi chết đi. Hai sự kiện đã xảy ra cũng làm cậu cảm nhận sâu sắc rằng: Cuộc đời con người có rất nhiều lúc không thể như ý, thậm chí còn rất thống khổ. 

Bởi vì tâm tình không tốt, cậu một mình ra bờ biển dạo chơi, khi ấy đúng lúc nước thủy triều đang rút, bỗng nhìn thấy một cô bé bị cuốn dạt vào bờ biển. Cậu nhìn một lúc lâu thấy cô bé chẳng mảy may cử động, chợt nhận ra có thể là cô bé này đã gặp nạn. Cậu vội vàng chạy đến ôm cô bé lên khẩn trương tiến hành sơ cứu, liên tục một hồi lâu cuối cùng cô bé cũng có chút hơi thở trở lại, cậu nhìn qua thấy thân thể cô bé còn hết sức yếu ớt bèn cõng cô bé về nhà chăm sóc. 

Trong thời gian cô bé dưỡng sức, Nhân Hưng và cha mẹ đều cố gắng tận tình chăm sóc, cô bé hồi phục cũng rất nhanh. 

Đợi thân thể cô bé gần như khỏe hẳn, Nhân Hưng mới hỏi xem gia đình cô bé ở đâu, cha mẹ làm nghề gì, sao lại bị sóng cuốn dạt tới nơi này.

Cô bé nhìn cậu một chút rồi nói: “Em đến từ một nơi tươi đẹp, cha mẹ rất tốt với em, lần này em vì một việc mà cố ý bị sóng đánh chìm, rồi gặp được anh”.

Câu nói của cô bé làm Nhân Hưng bối rối, cậu không hiểu ý tứ của cô bé, muốn tiếp tục hỏi cho rõ đầu đuôi.

Thế nhưng cô bé này tuyệt nhiên không trả lời những câu hỏi sau đó của cậu nữa, chỉ nói: “Anh lúc nhỏ là một người vô cùng chính trực, thiện lương, chẳng qua là bị những người xấu làm ô nhiễm, nếu anh muốn quay trở về làm người lương thiện, chính trực như trước kia, thì có việc này không biết anh có nguyện ý thực hiện hay không?”.

Cô bé nói ra điều này làm Nhân Hưng vô cùng kinh ngạc, cậu cảm thấy đây không phải là những chuyện mà một cô bé nhỏ tuổi như vậy có thể nói ra. Không lẽ nào cậu đã gặp được Thần Tiên? Đúng lúc Nhân Hưng nghĩ đến đây thì nghe cô bé nói: “Tương lai tại Trung Thổ sẽ truyền ra Đại Pháp có thể tu thành mà không cần thoát ly thế duyên, nếu như anh muốn tới lúc ấy thực sự có thể đắc Pháp, vậy đời này anh hãy đi tìm thử một chút xem”.

Nhân Hưng không hiểu bèn hỏi: “Vậy phải đi tìm thế nào?”. “Bởi vì trước đây anh đã từng có duyên với vị Giác giả truyền Pháp trong tương lai, vậy nên đời này anh hãy đến Bắc Hải ở phía Nam mà tìm”. “Bắc Hải (Biển Bắc) sao lại ở phía Nam?”. Nhân Hưng càng không thể hiểu được. “Bắc Hải là một tên địa danh, anh cứ men theo đường bờ biển đi một mạch về hướng Nam, khi nào tới được eo biển nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam thì ngay phía trước không xa chính là nơi cần đến” – cô bé trả lời.

“Em rốt cuộc là ai, bao nhiêu tuổi?” – Nhân Hưng hỏi đến cùng.

Cô bé thấy cậu hỏi câu này liền bật cười: “Em là ai không quan trọng, bao nhiêu tuổi cũng không quan trọng. Em chỉ có thể nói với anh rằng, trong thế giới bao la này có rất nhiều phương pháp tu hành, có cái có thể cải lão hoàn đồng, hơn nữa người tu hành khi đến một trình độ nhất định sẽ có biến hóa”.

Thấy cô bé không nói rõ, Nhân Hưng đành bảo: “Vậy anh hiểu rồi. Anh sẽ lập tức thu xếp lên đường men theo bờ biển đi đến Bắc Hải”.

“Không thể ngồi thuyền, phải đi bộ mới có thể thể hiện sự thành kính, hơn nữa trên đường đi anh sẽ gặp rất nhiều chuyện lạ, bất kể đó là việc tốt hay việc xấu thì đều không được quên mục đích ban đầu của chuyến đi này. Nhất định phải nhớ! Nhất định phải nhớ!”. Nói xong cô bé liền rời đi. 

Nhân Hưng nghe xong lời cô bé nói, lập tức thu xếp hành trang, cáo biệt cha mẹ và bạn bè cũ, bắt đầu xuất phát từ Uy Hải một mạch men theo đường bờ biển đi về hướng Nam.

Bản thân cậu vốn là đứa trẻ lớn lên ở vùng bờ biển, biển khơi đối với cậu không có gì lạ lẫm, cậu đi dọc theo đường bờ biển, suy nghĩ mãi liệu sẽ gặp chuyện kỳ quái ra sao?

Thế nhưng cậu đi được hơn nửa tháng, chẳng mảy may gặp chút sự việc kỳ lạ nào, dần dần cậu cũng thôi không nghĩ đến việc mình sẽ gặp chuyện lạ nữa, chỉ nghĩ làm thế nào có thể vì chính nghĩa không chùn bước mà tiến đến phương Nam. 

Khi đi đến Hàng Châu, Ninh Ba, cậu lại gặp một bé gái mời cậu về nhà chơi. Cậu nghĩ một lát, đi thì đi thôi. Thế nhưng cô bé bắt cậu nhắm mắt lại, và để cậu nắm lấy chiếc khăn tay của cô, nói rằng khi nào bảo cậu mở mắt thì cậu hẵng mở, nếu không sẽ có nguy hiểm đến tính mạng. Cậu đành phải nghe theo. 

Ngay sau đó, cậu cảm thấy giống như họ đang đi trong nước. “Là đi đâu?” cậu cũng không dám nghĩ đến. 

Đợi đến khi họ đứng trước một lâu đài có cánh cổng lớn, cô bé mới bảo cậu mở mắt, cậu vừa mở mắt ra liền ngạc nhiên thốt lên mừng rỡ: “Mọi người đều truyền nhau rằng dưới đáy biển có Long Cung, hóa ra là có thật!”. Đông Hải Long Vương đến vẫy tay chào, rồi bày yến tiệc thiết đãi cậu. Lại để tiểu nữ (con gái út của Long Vương) giữ cậu lại đó chơi thêm mấy ngày. 

Trong mấy ngày cậu tạm ở lại đây, Tiểu Long Nữ dẫn cậu đi chơi khắp các chốn trong Long Cung, thực sự khiến cậu được mở rộng tầm mắt. 

Đông Hải Long Vương vốn muốn giữ cậu lại chơi nhiều ngày, nhưng cậu một lòng muốn đi Bắc Hải gặp vị Giác giả tương lai sẽ truyền Pháp tại nhân gian, Long Vương cũng không miễn cưỡng cậu nữa, bèn để Tiểu Long Nữ đưa cậu đi một đoạn đường. 

Đoạn đường này đã đưa cậu đi thẳng đến quần đảo Bành Hồ thuộc eo biển Đài Loan, tại đây cậu gặp phải một con yêu quái biển hóa thành hình dạng mỹ nữ, con yêu quái này đòi cậu phải ở lại, nếu không sẽ ăn thịt cậu, nhưng cậu cũng chẳng vì thế mà động tâm, lại dùng thiện tâm và chính tín của mình mà cảm hóa được yêu quái biển (con yêu quái này bản chất cũng chưa quá xấu tệ), yêu quái biển cũng đưa cậu đi một đoạn đường. 

Đoạn đường này đưa cậu đến gần vùng Huệ Châu, tại đây cậu được thưởng ngoạn cảnh đẹp và phong thổ dân tình của địa phương, sau đó cậu lại theo theo bờ biển mà tiếp tục đi (đường thủy). Lên đến bờ thì gặp ngay hai ngư dân đang cãi nhau vì chuyện bắt cá, thậm chí còn động thủ đánh nhau. Cậu tiến đến khuyên giải, nào ngờ lại bị người ta hiểu lầm là muốn trộm đồ, thậm chí chẳng hỏi rõ đầu đuôi đã trói cậu lại đem lên quan phủ, tống vào nhà lao đợi ngày trị tội. 

Vị quan đương nhiệm đối nhân xử thế cũng không tồi, sau khi hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành thì sai người đem cậu đánh 20 trượng rồi thả cho cậu đi (Nếu không phạt gì cậu thì những người trói cậu giải lên quan sẽ bị mất mặt, cũng coi như giữ cho mấy người dân địa phương kia một chút thể diện).

Vì bị thương do chịu đòn nên cũng không thể gấp rút lên đường, cậu đành tìm một quán trọ nhỏ ở lại rồi mời thầy thuốc đến khám.

Trong thời gian dưỡng bệnh, cậu lại gặp phải mấy thanh niên hư hỏng, bọn họ ở trước mặt Nhân Hưng nói rất nhiều chuyện ăn chơi hưởng lạc, xui cậu quay lại sòng bạc và kỹ viện. Có một lần cậu thực sự đã động tâm, đang lúc đi đến cổng sòng bạc thì bỗng dưng vấp ngã rồi bị sái chân. Cậu lập tức hiểu ra mình tuyệt đối không nên đến nơi này. 

Vậy nên trong tình trạng vết thương chưa lành lại hẳn, cậu vẫn gấp rút lên đường.

Sau mấy ngày đi bộ gian nan, cậu gặp được một vị Thần Biển, vị Thần Biển này cho cậu một loại Thần dược có thể trị thương để cậu đắp lên chỗ đau, nói ra cũng thật thần kỳ, cậu vừa đắp lên liền không cảm thấy đau nữa.

Toàn bộ quá trình “ngao du” dọc bờ biển trên thực tế lại vô cùng gian khổ, đối mặt với sự tàn hại của cuồng phong bão táp, đối mặt với sự tấn công từ các loại sinh vật biển, cậu đều có thể kiên trì chính niệm, không thay đổi ý nguyện ban đầu, cuối cùng cậu cũng đến được Bắc Hải. Đến đây, cậu bèn đi khắp nơi tìm kiếm vị Giác giả truyền Đại Pháp trong tương lai. 

Sau đó, cậu đến một ngôi chùa gặp được một vị trụ trì. Cậu hỏi trụ trì về hành tung của vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp. 

Trụ trì nói: “Hành tung của vị ấy không cố định, hơn nữa còn có thể xuất hiện dưới nhiều hình dạng khác nhau ở nhân gian. Con đã chịu muôn vàn gian khổ đến được nơi này, đã làm xong việc mà con nên làm rồi, những chuyện khác không cần nghĩ quá nhiều. Chưa biết chừng vào lúc vô tâm vô ý lại gặp được, là bởi vì hữu duyên”.

Nhân Hưng nghe xong liền thẳng thắn nói: “Ngài chính là vị Giác giả mà con cần tìm!”

Trụ trì khẽ mỉm cười: “Ngộ tính của con vẫn còn rất tốt! Tương lai cũng nhất định sẽ đắc được Đại Pháp có thể chân chính đưa con người hồi thăng!”

Nhân Hưng vui mừng nói: “Tương lai con nhất định phải làm đệ tử chuyên tu của Ngài. Bởi vì hôm nay duyên đã kết (chính là tình huống được gặp trực tiếp), cũng bởi vì con có thể không bị những thứ bất hảo chốn hồng trần làm lay động, can nhiễu”.

Trụ trì nghe xong, lặng lẽ gật đầu.

Đây chính là:

Mạn du hải ngạn lộ mạn mạn
Đa trùng can nhiễu khứ mê huyễn
Tâm để sơ trung bất tằng biến

Đắc Pháp hồi thiên sinh mệnh huyến!

Dịch nghĩa:

Du ngoạn nơi bờ biển mênh mông
Biết bao can nhiễu cùng mê hoặc
Tận đáy lòng ước nguyện ban sơ không thay đổi
Đắc Pháp hồi thiên sinh mệnh tỏa sáng

Chú giải: Ý nghĩa của câu cuối chính là đắc được Đại Pháp thì thời khắc sinh mệnh quay về ngôi nhà nguyên lai trên thiên thượng sẽ thật sự rực rỡ chói lọi.

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

Nguồn: Chanhkien.org