Dự ngôn chính là được những người tu hành có đạo hạnh rất cao, dùng ngôn ngữ đầy ẩn ý để nói cho mọi người biết những sự tình sẽ xảy ra trong tương lai, cũng chính là những thiên cơ có liên quan đến vận mệnh của mọi người, cũng gọi là chân tướng.

Ngay từ đầu năm nay khi Vũ Hán vừa mới bắt đầu dịch bệnh thì Tống Thần Quang – một người Mỹ gốc Hoa định cư ở New York, đã dùng Kinh Dịch tính quẻ, được một quẻ Khảm, vậy là trong lòng ông đã nắm được tình hình khái quát của dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán này rồi…

Tống tiên sinh nói: “Tình hình dịch bệnh này có liên quan đến đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), nó rất hung hiểm, khởi phát vào giữa mùa thu – đông năm ngoái, gặp năm Canh Tý, có vượng khí của Thiên can, Địa chi, tiến về phía Đông, lên phía Bắc, hoành hành toàn cầu, sẽ là một dịch bệnh không nhỏ…”

Đặt tờ quẻ xuống, Tống Thần Quang nhớ lại rất nhiều dự ngôn mà ông đã từng nghiên cứu trước đây, bèn quyết định viết một chút gì đó để cảnh tỉnh thế nhân.

Tống Thần Quang năm nay ngoài 50 tuổi, khi còn ở Trung Quốc thì nghề nghiệp đầu tiên của ông là phiên dịch tiếng Nhật. Đầu những năm 80 thế kỷ trước, vì mắc bệnh nên ông đã quen biết và kết giao với hai kỳ nhân Đông y có những tuyệt kỹ, khiến ông nảy sinh hứng thú đối với Đông y.

Tống Thần Quang.
Tống Thần Quang. (Epoch Times)

Tống Thần Quang chuyển nghề sang học Đông y, nghiên cứu kinh lạc. Người Á Đông xưa nay vẫn thường nói: “Y có nguồn gốc từ Dịch, Y – Dịch có cùng nguồn gốc”. Thần y cổ đại Tôn Tư Mạc đã nói: “Không biết Dịch thì không đủ hiểu biết để nói về thái y”. Do đó sau này Tống Thần Quang lại nghiên cứu Kinh Dịch, kết hợp dự đoán học của Chu Dịch với chẩn đoán của Đông y, Tống Thần Quang phát hiện ra việc kết hợp các kiến thức này đem lại kết quả chẩn đoán bệnh tật rất chuẩn xác. Cuối cùng, ông làm chuyên viên ở một viện nghiên cứu khoa học nhân thể ở phương Bắc, chuyên nghiên cứu về khoa học nhân thể, đồng thời được mời đến Nhật Bản giảng dạy.

Dự ngôn: Miêu tả về dịch bệnh

Trong mấy chục năm qua, Tống Thần Quang đã nghiên cứu rất nhiều dự ngôn trong lịch sử nhân loại. Những dự ngôn này bao gồm “Khải Huyền” trong Kinh Thánh, “Các Thế Kỷ của Nostradamus”, “Cách Am Di Lục” của Hàn Quốc, dự ngôn của người Da đỏ và người Maya, còn có Kinh “Kim Cang” của Phật Thích Ca Mâu Ni, “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng, “Thôi Bối Đồ” của Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong, “Thiêu Bính Ca”, “‘Văn Bia Tháp Kim Lăng” và “Thôi Bi Đồ” của Lưu Bá Ôn, “Mai Hoa Thi” của Thiệu Ung, “Ngũ Công Kinh” của Phật gia và “Thái Thượng Động Uyên Thần Chú Kinh” của Đạo gia…

Tống Thần Quang nói: “Dự ngôn chính là được những người tu hành có đạo hạnh rất cao, dùng ngôn ngữ đầy ẩn ý để nói cho mọi người biết những sự tình sẽ xảy ra trong tương lai, cũng chính là những thiên cơ có liên quan đến vận mệnh của mọi người, cũng gọi là chân tướng. Tính chính xác của những dự ngôn nói trên đã được lịch sử chứng minh rất nhiều rồi, những độc giả không tin, hoặc chưa nghe đến thì có thể tự tìm hiểu thêm”. 

Dự ngôn chính là được những người tu hành có đạo hạnh rất cao, dùng ngôn ngữ đầy ẩn ý để nói cho mọi người biết những sự tình sẽ xảy ra trong tương lai..."
Dự ngôn chính là được những người tu hành có đạo hạnh rất cao, dùng ngôn ngữ đầy ẩn ý để nói cho mọi người biết những sự tình sẽ xảy ra trong tương lai…” (Wikimedia Commons)

Tống Thần Quang nói: “Đối với người nghiên cứu Dịch học, kinh lạc hoặc tu luyện mà nói thì việc họ dự ngôn chính xác là điều không có gì là thần bí. Ngoài việc họ có thể suy tính từ thế giới vạn vật liên quan ra, còn có thể lý giải là những nhà tiên tri này trong một trường thời gian đặc thù đã nhìn thấy diện mạo của những sự việc xảy ra trong tương lai”.

Tống tiên sinh nói: “Dự ngôn còn có một đặc điểm, đó là trước khi sự tình xảy ra thì đối với những giải mã dự ngôn, mọi người thường cảm thấy khiên cưỡng khó tin, sau khi sự tình xảy ra thì mới bừng tỉnh ngộ”.

Nhiều người tin rằng cách đây hơn 500 năm, nhà tiên tri Nostradamus đã tiên đoán chính xác về vụ tấn công vào Tòa tháp đôi ở New York, Mỹ vào ngày 11/09/2001.
Nhiều người tin rằng cách đây hơn 500 năm, nhà tiên tri Nostradamus đã tiên đoán chính xác về vụ tấn công vào Tòa tháp đôi ở New York, Mỹ vào ngày 11/09/2001. (Internet)

Về những miêu tả trong các dự ngôn về dịch bệnh hiện nay, Tống Thần Quang nghĩ đến Ngũ Công Kinh, trong đó đã nói rất rõ ràng về thời gian, địa điểm và diện phân bố rộng:

“Những năm Tý Sửu đất Giang Nam, người chết hàng vạn thiếu quan tài”.

“Những năm Tý Sửu thời mạt kiếp, chẳng kể giàu nghèo, quốc vương binh sĩ, quan lại thứ dân”…

Tống Thần Quang nói: “Lần bùng phát dịch bệnh Vũ Hán này, nhanh chóng lan đến trên 200 quốc gia trên thế giới, trên đến thủ tướng, dưới đến binh sĩ, bách tính dân nghèo, bất kể giàu khó sang hèn, các giai tầng đều có người nhiễm bệnh. Rất nhiều người chết không có được quan tài, bỏ vào trong túi tử thi đem mai táng. Dự ngôn nói đều ứng nghiệm”.

Tống tiên sinh nói thêm: “Năm nay là năm Tý, như vậy ám chỉ sang năm (năm Sửu) dịch bệnh vẫn còn”.

Tống tiên sinh nói thêm: "Năm nay là năm Tý, như vậy ám chỉ sang năm (năm Sửu) dịch bệnh vẫn còn".
Tống tiên sinh nói thêm: “Năm nay là năm Tý, như vậy ám chỉ sang năm (năm Sửu) dịch bệnh vẫn còn”. (Ảnh chụp video)

Ngoài ra, Tống Thần Quang còn nghĩ đến tượng thứ 46 của Thôi Bối Đồ, cũng nói về sự tình đáng sợ của kiếp nạn nhân loại:

Sấm viết:

Ảm ảm âm mai
Sát bất dụng đao
Vạn nhân bất tử
Nhất nhân nan đào

Tạm dịch:

Mây mù ảm đạm
Giết chẳng dùng dao
“Vạn người” không chết
Một người khó thoát

Tống Thần Quang cho rằng: “Đây chính là hoàn cảnh sinh tồn của Trung Quốc hiện nay, do ĐCSTQ tuyên dương thuyết Tiến hóa và thuyết Vô Thần khiến đạo đức mọi người bại hoại, vì lợi quên nghĩa, tạo ra ô nhiễm không khí, và các sản phẩm độc hại khắp nơi như sữa độc, vaccine độc, dầu ăn vớt từ nước cống… các loại bệnh tật xuất hiện, nghiệp lực cuồn cuộn, khiến dịch bệnh bùng phát.

Trong sự thực đáng sợ này, chỉ có “vạn” người không chết, còn lại thì “một người khó thoát”. Chữ “vạn” này là chỉ chữ Vạn của Phật gia (卍 – cũng đọc là vạn) và Đồ hình Pháp Luân.

Do đó “vạn nhân” (vạn người) là chỉ những người tín ngưỡng Phật – Đạo – Thần, là những người mà đạo đức đạt đến mức Thần chấp nhận thì mới có thể “bất tử” (không chết)”.

"Vạn nhân" (vạn người) là chỉ những người tín ngưỡng Phật - Đạo - Thần, là những người mà đạo đức đạt đến mức Thần chấp nhận thì mới có thể "bất tử" (không chết)".
“Vạn nhân” (vạn người) là chỉ những người tín ngưỡng Phật – Đạo – Thần, là những người mà đạo đức đạt đến mức Thần chấp nhận thì mới có thể “bất tử” (không chết)”. (Shutterstock)

Tiếp theo đó là:

Tụng viết:

Hữu nhất quân nhân thân đới cung
Chỉ ngôn ngã thị bạch đầu ông
Đông biên môn lý mai kim kiếm
Dũng sĩ hậu môn nhập đế cung

Tạm dịch:

Có một quân nhân thân mang cung
Chỉ nói ta là “Bạch đầu ông”
Trong cửa phía Đông kiếm vàng phục
Dũng sĩ cửa sau nhập “Đế cung”.

Trong đó câu “Chỉ nói ta là “Bạch đầu ông” là chỉ Tập Cận Bình – người nắm quyền chỉ huy quân đội. Chữ Vũ 羽 dưới chữ Ông 翁 hợp với chữ Bạch 白 thành chữ Tập 習, do đó có thể thấy là đã chỉ ra thời gian xảy ra dịch bệnh là thời gian Tập Cận Bình nắm quyền.

Câu "Chỉ nói ta là "Bạch đầu ông" là chỉ thời gian xảy ra dịch bệnh là thời gian Tập Cận Bình nắm quyền.
Câu “Chỉ nói ta là “Bạch đầu ông” là chỉ thời gian xảy ra dịch bệnh là thời gian Tập Cận Bình nắm quyền. (Getty)

Dự ngôn: Đưa ra phương pháp tránh thoát khổ nạn

Những miêu tả của rất nhiều dự ngôn nói trên đều nói về tai họa, và cũng đưa ra những phương pháp tránh thoát khổ nạn. Tống Thần Quang chọn ra vài dự ngôn nổi tiếng để giải thích như sau:

1. Kinh Kim Cang

Trong Kinh Kim Cang, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: xã hội nhân loại 3000 năm sau là “Thập độc ác thế”; “Chuyển Luân Thánh Vương” sẽ đích thân giáng lâm chốn nhân gian phổ độ chúng sinh. Đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni là Phổ Hiền Bồ Tát cũng đã nhiều lần đề cập đến thời kỳ mạt Pháp, Phật Di Lặc tái sinh chuyển Pháp luân. Trong phần Thuyết Bản Kinh, phẩm Vương Tương Ứng, kinh Trung A Hàm có viết: “Tương lai xa, khi con người thọ 8 vạn tuổi, thì có Phật, danh là Di Lặc Như Lai”.

Nữ đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni là Liên Hoa Sắc hỏi: “Bạch Thế tôn, Thế tôn nói tương lai có Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp, đến lúc đó, mọi người không biết thì làm thế nào?”

Phật Thích Ca Mâu Ni khai thị rằng: “Đến lúc đó có một loài hoa là Ưu Đàm Bà La sẽ nở khắp nơi, có thể nhắc nhở mọi người là Chuyển Luân Thánh Vương trụ thế truyền Pháp độ nhân rồi”.

Phật Thích Ca Mâu Ni khai thị rằng: "Đến lúc đó có một loài hoa là Ưu Đàm Bà La sẽ nở khắp nơi, có thể nhắc nhở mọi người là Chuyển Luân Thánh Vương trụ thế truyền Pháp độ nhân rồi".
Phật Thích Ca Mâu Ni khai thị rằng: “Đến lúc đó có một loài hoa là Ưu Đàm Bà La sẽ nở khắp nơi, có thể nhắc nhở mọi người là Chuyển Luân Thánh Vương trụ thế truyền Pháp độ nhân rồi”.

2. Thôi Bi Đồ

Thôi Bi Đồ có viết: “Di Lặc Phật từ Thiên viết, ngã khứ hậu chỉ truyền tự gia, tam tự tam Pháp, tất vạn Pháp quy nhất, Pháp chính Càn Khôn, lễ tất thấu hư nhi khứ, phàm thân Mộc Tử tính”.

(Tạm dịch: “Phật Di Lặc từ biệt Trời rằng, sau khi ta đi xuống chỉ truyền thứ của tự gia, Tam tự Tam Pháp, ắt vạn Pháp quy nhất, Pháp chính Càn Khôn, lễ xong xuyên qua hư không mà đi, thân phàm họ là Mộc Tử”)

Tống Thần Quang giải thích đoạn này đại ý nói Phật Di Lặc khi từ biệt chúng Thần trên Trời đã nói rằng: sau khi ta đi xuống nhân gian, chỉ truyền Đại Pháp 3 chữ của ta, đồng thời dùng Đại Pháp khiến vạn Pháp quy nhất, Thiên Địa quy chính. Thi lễ hoàn tất, xuyên vượt cõi Thần hướng tới nhân gian đi xuống, Phật Di Lặc sau khi chuyển thân thế nhân sẽ lấy tên họ là Mộc Tử (木子 – tức chữ Lý 李).

Phật Di Lặc sau khi chuyển thân thế nhân sẽ lấy tên họ là Mộc Tử (木子 - tức chữ Lý 李).
Phật Di Lặc sau khi chuyển thân thế nhân sẽ lấy tên họ là Mộc Tử (木子 – tức chữ Lý 李). (Wikipedia)

Trong Thôi Bi Đồ còn có một chỗ khác viết: “Nhi thời Di Lặc thấu hư, đáo Nam Hạp Phù Đề Trung Thiên, Trung Quốc kim kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, long hoa hội hổ, thố chi niên đáo trung thiên, dĩ Mộc Tử tính”.

(Tạm dịch: “Lúc đó Phật Di Lặc xuyên qua hư không, đến Trung Thiên cõi Nam Hạp Phù Đề, mắt gà vàng Trung Quốc, thời phụng Ngọc Thanh niên kiếp hết, Long hoa hội hổ, năm Thỏ (Mão) đến Trung Thiên, tên họ là Mộc Tử”).

Tống Thần Quang diễn dịch là: “Sau đó không lâu, Phật Di Lặc chuyển sinh đến Trung Quốc, đến vị trí “mắt gà vàng”, năm đó là năm thỏ (Mão), ở nhân gian là họ Mộc Tử (木子 – tức chữ Lý 李). Vị trí tỉnh Cát Lâm chính là vị trí mắt gà vàng (Bản đồ Trung Quốc hình con gà, tỉnh Cát Lâm ở vị trí mắt gà)”.

Phật Di Lặc chuyển sinh đến Trung Quốc, đến vị trí "mắt gà vàng", năm đó là năm thỏ (Mão), ở nhân gian là họ Mộc Tử (木子 - tức chữ Lý 李).
Phật Di Lặc chuyển sinh đến Trung Quốc, đến vị trí “mắt gà vàng”, năm đó là năm thỏ (Mão), ở nhân gian là họ Mộc Tử (木子 – tức chữ Lý 李). Tỉnh Cát Lâm chính là vị trí mắt gà vàng. (Wikipedia)

3. Cách Am Di Lục

Trong Cách Am Di Lục có một câu:

“Thiên giáng cứu chủ, mã đầu ngưu giác, chân chủ chi huyễn, thị vinh tự ý hà, thế nhân giải oan, Thiên thụ đại phúc, vĩnh viễn vô cùng hĩ”

(Tạm dịch: “Thiên giáng cứu chủ, đầu ngựa sừng trâu, chân chủ huyễn ảo, chữ “thị vinh” có ý nghĩa gì, thế nhân giải oan, Trời được đại phúc, vĩnh viễn vô cùng”).

Tống tiên sinh tham khảo giải thích của tiên sinh Jeonghan người Hàn Quốc rằng: “Họ của chân chủ chuyển sinh là ở trong “thị vinh tự ý hà” (chữ “thị vinh” có ý nghĩa gì). Lấy chữ Mộc 木 trong chữ Vinh 榮 và chữ Tử 子 trong chữ Tự  字 chính là chữ Lý 李, chính là nói chân chủ cứu thế chuyển sinh mang họ Lý”.

4. Văn Bia Tháp Kim Lăng

Văn Bia Tháp Kim Lăng có viết: “Năng phùng mộc thố phương vi thọ, trạch cập quần sinh lạc thả khang, hữu nhân thức đắc kỳ trung ý phú quý vinh hoa bách thế xương”.

(Tạm dịch: “Có thể gặp Mộc Thố (thỏ gỗ) thì mới được thọ, ân trạch chúng sinh vui an lạc, có người biết được ý trong đó, phú quý vinh hoa trăm đời hưng thịnh”).

Tống Thần Quang giải nghĩa rằng: “Những chúng sinh chiểu theo lời giảng của Đại giác giả chuyển sinh vào năm Thỏ (Mão) mà tu luyện thì sẽ khang lạc trường thọ, phú quý vinh hoa, trăm việc hưng thịnh”.

"Những chúng sinh chiểu theo lời giảng của Đại giác giả chuyển sinh vào năm Thỏ (Mão) mà tu luyện thì sẽ khang lạc trường thọ, phú quý vinh hoa, trăm việc hưng thịnh".
“Những chúng sinh chiểu theo lời giảng của Đại Giác Giả chuyển sinh vào năm Thỏ (Mão) mà tu luyện thì sẽ khang lạc trường thọ, phú quý vinh hoa, trăm việc hưng thịnh”. (Xem hình đầy đủ tại đây)

5. Ngũ Công Kinh

Ngũ Công Kinh ngoài dự ngôn về thiên tai nhân họa xảy ra vào thời mạt kiếp ra, đồng thời còn dự ngôn thần bí rằng, vào thời mạt kiếp sẽ có một đế vương chuyển sinh xuống nhân gian truyền Pháp cứu độ chúng sinh:

“Ngô tri đế vương tính, thổ mộc liên đinh khẩu, ngô tri đế vương danh, tam đinh cập nhị đinh, kỳ cánh liên nhất tự, cánh hướng não trung sinh, bất dụng xích thốn phân, đoan tọa đế vương đình, đáo lai mộc sinh gia, hài cốt tự tung hoành. Thủ đề thiên cân trọng, bát bảo tự lưu tinh, vận chí bảo nhữ an. Bất sầu vô ưu muộn, bất luận bần dữ phú, kính giả tự an khang, nhược hữu bất tín giả, nan kiến thái bình niên, chúng sinh khủng hữu nạn, truyền kinh cứu thế nhân, Quán Âm đại từ bi, cố lai cứu chúng sinh”.

(Tạm dịch: “Tôi biết tên họ của đế vương, thổ mộc liền đinh khẩu, tôi biết tên đế vương, tam đinh cập nhị đinh, nó nối liền một chữ, hướng vào não nộ sinh, không phân cao thấp, ngồi nghiêm ở điện đế vương, mà đến nhà Mộc sinh, hài cốt tự tung hoành. Tay nhấc ngàn cân nặng, Bát bảo tựa sao băng, vận đến bảo bình an. Không sầu không lo nghĩ, không kể giàu với nghèo, người tôn kính tự an khang, người không tin thì khó thấy được năm thái bình, chúng sinh e có nạn, truyền kinh cứu thế nhân, Quán Âm đại từ bi, cho nên đến cứu chúng sinh”).

Ngũ Công Kinh dự ngôn thần bí rằng, vào thời mạt kiếp sẽ có một đế vương chuyển sinh xuống nhân gian truyền Pháp cứu độ chúng sinh. (Shutterstock)
Ngũ Công Kinh dự ngôn thần bí rằng, vào thời mạt kiếp sẽ có một đế vương chuyển sinh xuống nhân gian truyền Pháp cứu độ chúng sinh. (Shutterstock)

Tống tiên sinh giải nghĩa: “Thổ mộc liên đinh khẩu” có hai cách giải nghĩa.

Thứ nhất là, “Thổ mộc liên”, nếu đem chữ Thổ 土 đảo ngược thành chữ Can 干, Mộc 木 trên Can dưới thành chữ Lý 李.

Thứ hai là, “Mộc liên đinh khẩu”, đinh khẩu (丁口) là chữ Tử 子. Xem nửa trên chữ Tử là hình tam giác khuyết フ, gọi là khuyết khẩu. Khuyết khẩu フ hợp với đinh chữ 丁 thành chữ Tử. Do đó “mộc liên đinh khẩu” là chữ Lý 李.

Ngũ Công Kinh dùng 5 chữ “Thổ mộc liên đinh khẩu”, đã bí mật nói ra 2 lần tên họ Lý của đế vương. Hơn nữa không chỉ nói ra họ mà còn nói ra tên của đế vương.

“Tam đinh cập nhị đinh”, Tam đinh (三丁) là 3 chấm thủy (氵), chữ cập (及) đồng âm chữ cập (丌), “liên nhất tự” (thêm chữ nhất 一), thành chữ Khai (开). “cập nhị đinh (二丁)” là chữ Bát (八). Chữ Khai đảo ngược trên chữ Bát thành chữ Cộng (共). Do đó câu này nghĩa là chữ Hồng (洪) – 3 chấm thủy và chữ Cộng hợp thành.

“Cánh hướng não trung sinh”: chữ Não ở đây là “não nộ”, là một trong “ngũ chí” của Đông y, do đó câu này là chữ Chí (志).

“Bất dụng xích thốn phân, đoan tọa đế vương đình, đáo lai mộc sinh gia”, nghĩa là vị đế vương không biết ở tầng thứ cao thế nào chuyển sinh xuống hạ giới, vào nhà Mộc (tức họ Lý).

6. “Tam tự” trong dự ngôn

Mấy dự ngôn trên có nói đến “Tam tự” (3 chữ), rốt cuộc là 3 chữ gì? Chúng ta hãy xem tác phẩm “Thôi Bi Đồ” tiên tri ra sao:

Sau khi Lưu Bá Ôn nói thời mạt kiếp, tai họa rất thảm thiết, Thân đại nhân hỏi: ‘Có cách thay đổi không?’. Thiên sư đáp rằng: ‘Duy có 3 chữ có thể hóa giải’.

Trong “Lưu Bá Ôn Bi Ký” có 4 câu thơ:

Thất nhân nhất lộ tẩu
Dẫn dụ tiến liễu khẩu
Tam điểm gia nhất câu
Bát vương nhị thập khẩu

Tạm dịch:

Bảy người đi một đường
Dẫn dụ vào trong miệng
Ba chấm thêm một móc
Tám vương hai mươi miệng

Tống Thần Quang giải thích rằng:

“Thất nhân nhất lộ tẩu, dẫn dụ tiến liễu khẩu” chính là chữ Chân. Chữ Chân thời cổ đại viết 眞, trên là chữ Chủy 匕 giống chữ Thất 七, hai nét dưới cùng giống chữ Nhân 人, giữa chữ Mục và Nhân giống bộ Xước 辶 nghĩa là đi, còn “dẫn dụ vào trong miệng” là chữ Mục 目, chính là chữ Khẩu 口 có 2 nét ở trong.

“Bát vương nhị thập khẩu”: chữ Bát 八 đảo ngược đặt trên chữ Vương 王, dựng đứng chữ Nhị 二 để hai bên chữ Thập 十 rồi đặt chữ Khẩu 口 ở dưới là thành chữ Thiện 善.

“Tam điểm gia nhất câu” chính là chữ Nhẫn 忍. Nửa trên là chữ Nhận 刃, nếu đưa nét chấm sang bên phải thì giống chữ Gia 加. Ở dưới là chữ Tâm 心 gồm 3 chấm (tam điểm) và một nét móc (câu).

"Lưu Bá Ôn dùng phương pháp câu đố chữ để nói với mọi người 3 chữ này. Ông hy vọng mọi người có thể thuận ứng theo 3 chữ này mà được lưu lại"
“Lưu Bá Ôn dùng phương pháp câu đố chữ để nói với mọi người 3 chữ này. Ông hy vọng mọi người có thể thuận ứng theo 3 chữ này mà được lưu lại”. (Ảnh chụp video)

Tống Thần Quang nói: “Lưu Bá Ôn dùng phương pháp câu đố chữ để nói với mọi người 3 chữ này. Ông hy vọng mọi người có thể thuận ứng theo 3 chữ này mà được lưu lại, nhưng lại không được phép tiết lộ hết thiên cơ, do đó ông đã phải bỏ ra nhiều tâm sức”.

7. Tự cứu mình như thế nào

“Ngũ Công Kinh” sau khi ám chỉ danh tính vị đế vương hạ thế và viết: “vận đến bảo bình an. Không sầu không lo nghĩ, không kể giàu với nghèo, người tôn kính tự an khang, người không tin thì khó thấy được năm thái bình, chúng sinh e có nạn, truyền kinh cứu thế nhân, Quán Âm đại từ bi, cho nên đến cứu chúng sinh”, đã nói rõ phương pháp tự cứu mình. Đại Giác Giả thấy chúng sinh sẽ có tai họa, xuất phát từ lòng đại từ bi, truyền Đại Pháp cứu độ chúng sinh. Bất kể là giàu nghèo sang hèn, nếu đắc Pháp, hoặc tôn kính Pháp thì khi tai họa đến không cần phải lo lắng sợ hãi, tự sẽ được bình an. Còn người không tin, không tôn kính Đại Pháp thì sẽ khó qua được kiếp nạn, sẽ không thấy được kỷ nguyên mới tốt đẹp thái bình sẽ đến.

Trong “Thôi Bi Đồ”, Lưu Bá Ôn có viết: “Người không tin, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc nào chữa được, thổ huyết mà chết. Người biết kinh này thì bảo toàn tính mệnh, người thực tâm tụng đọc thực hành, theo Phật gia an nhiên, niềm vui bất tận, chuyển phàm thành Thánh, trái lại thì không một ai sống sót”.

Trong “Thôi Bi Đồ” có một đoạn khác viết: “Người thiện hay ác mà tụng niệm chân kinh, biết hối cải, gọi là biết quay đầu. Người biết chân tướng, gọi là ở trên bờ”.

Người biết kinh này thì bảo toàn tính mệnh, người thực tâm tụng đọc thực hành, theo Phật gia an nhiên, niềm vui bất tận, chuyển phàm thành Thánh, trái lại thì không một ai sống sót
“Người biết kinh này thì bảo toàn tính mệnh, người thực tâm tụng đọc thực hành, theo Phật gia an nhiên, niềm vui bất tận, chuyển phàm thành Thánh, trái lại thì không một ai sống sót.”

Tống tiên sinh giải thích, ý nghĩa đoạn này là bất kể người tốt hay người xấu, tụng niệm chân kinh và biết hối cải thì gọi người ấy là biết “quay đầu”. Người biết chân tướng Đại Pháp và lý giải giúp đỡ người của Đại Pháp thì gọi là ở “trên bờ”.

Tiếp theo là câu “Gọi người quay đầu vào đất là người, người trên bờ cùng lên chùa 10 vạn 8 ngàn”. Đó là nói rằng: người quay đầu sau khi kiếp nạn qua đi sẽ trở thành nhân loại mới của trái đất tương lai, có phúc phận lớn. Người trên bờ có cơ hội tu luyện Đại Pháp, cũng trở thành sinh mệnh cao cấp.

Trong “Lưu Bá Ôn Bi Ký” viết: “Người nghèo 1 vạn lưu 1 nghìn, người giàu 1 vạn lưu 2, 3. Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, hãy xem cái chết ở trước mắt. Đồng bằng không có trồng ngũ cốc, cản phòng tứ phía tuyệt bóng người. Nếu hỏi ôn dịch khi nào đến, hãy xem mùa đông tháng 9, 10. Người hành thiện thì được thấy, người hành ác chẳng được xem. Trên đời có người hành đại thiện, chịu kiếp nạn này chẳng khôn ngoan”.

Lưu Bá Ôn đã nói rất rõ rằng, khi “trên đời có người hành đại thiện”, khi Thần Phật cứ lần lữa lần lữa kéo dài thời gian, nếu có người vẫn không tin, không tỉnh ngộ, thế thì quả là phải “chịu kiếp nạn này chẳng khôn ngoan” rồi!

"Người nghèo 1 vạn lưu 1 nghìn, người giàu 1 vạn lưu 2, 3. Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, hãy xem cái chết ở trước mắt. Đồng bằng không có trồng ngũ cốc, cản phòng tứ phía tuyệt bóng người."
“Người nghèo 1 vạn lưu 1 nghìn, người giàu 1 vạn lưu 2, 3. Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, hãy xem cái chết ở trước mắt. Đồng bằng không có trồng ngũ cốc, cản phòng tứ phía tuyệt bóng người.” (Tổng hợp)

Tống Thần Quang nói: “Nghiên cứu những dự ngôn này, lại xem những sự tình đang xảy ra hiện nay, tôi khuyên mọi người, hãy nghe những lời các học viên Pháp Luân Công nói, tụng niệm 9 chữ chân ngôn: “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, thà tin là có, chớ tin là không”.

Ông nói thêm: “Dịch bệnh có thể biến đổi bất cứ lúc nào, cũng không thể dùng thuốc men hóa chất nào ngăn chặn nổi, nó sẽ biến dị khiến thuốc vô hiệu. Hiện nay cho đến mùa thu đông, và đến sang năm, dịch bệnh sẽ không ngừng lại”.

Tống tiên sinh nói tiếp: “Trong văn hóa truyền thống Á Đông có nói đến “Ôn Thần”, “Dịch quỷ”, thực ra ôn dịch (dịch bệnh) là do Thần khống chế, là có tính định hướng. Thế nên dịch bệnh khi nào đến, khi nào dừng thì hoàn toàn xem xu hướng nhân tâm thế nào mà định đoạt”.

 

 


Theo Thi Bình – Epoch Times