Chắc hẳn sẽ không còn Đại Hồng Thủy nào nữa, nhưng Noah biết một điều rằng: nền văn minh của nhân loại là gắn liền với tình trạng đạo đức của họ. Đại Hồng Thủy đã lưu lại một lời giáo huấn sâu sắc của Thần cho muôn đời: “Chừng nào thế nhân còn giữ được đạo đức của mình thì chừng ấy nền văn minh của họ vẫn tồn tại và phát triển. Và ngược lại”.
“Chuyện Kinh Thánh” là tác phẩm văn học nổi tiếng được viết dựa trên Kinh Thánh của người Cơ Đốc, tác giả là nữ văn hào Pearl Buck – người đã từng giành giải Nobel Văn Chương năm 1938 và giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1931. Loạt bài “Đại Hồng Thủy” của “Giải mã danh tác” là nội dung phóng tác dựa trên câu chuyện về “Noah và Đại Hồng Thủy” trong “Chuyện Kinh Thánh” mà vẫn giữ nguyên tinh thần của truyện. Kính mời quý độc giả thưởng thức.
Ichabod đứng bần thần giữa căn phòng ngủ rộng thênh thang trong ngôi nhà lớn như cung điện của mình, vây quanh anh ta là những ngà voi, da thú, thảm quý, đồ tạo tác tinh xảo bằng vàng, đá quý… món nào cũng đáng giá cả một gia tài. Hầu hết chúng là quà biếu Ichabod từ những kẻ cầu cạnh lúc nào cũng đông như kiến cỏ. Nhưng lúc này, anh ta không để tâm đến chúng, qua khung cửa sổ lớn được trạm trổ cầu kỳ bằng gỗ quý, Ichabod nhìn ra khu vườn rộng, khẽ nhíu mày, lẩm bẩm:
– Quái lạ, mưa đã một ngày một đêm rồi. Chẳng lẽ dự báo thời tiết lại sai à?
Trời bắt đầu mưa từ sáng hôm qua, kết thúc một thời kỳ khô hạn của Simara. Dân cư trong thành sung sướng đón mưa, họ cho rằng máy đo thời tiết đã dự báo đúng, sẽ có một cơn mưa rào kéo dài từ sáng đến tối và họ sẽ có đủ nước sinh hoạt và sản xuất. Nhưng mưa đã rơi suốt từ sáng hôm qua đến tận trưa nay mà không có dấu hiệu dừng lại. Những hạt mưa lớn, dày đặc rơi ào ào xuống vườn cây nhà Ichabod, khiến cho những tán lá cũng như trĩu xuống.
Thấy bồn chồn, Ichabod gọi gia nhân mang ra chiếc ô lớn, anh ta cầm ô đi dọc theo hàng hiên có mái che ra đến cổng và nhìn ra đường.
Mưa trắng trời, không thể nhìn rõ cảnh vật, nhưng chắc chắn không có ai ra ngoài lúc này. Dân cư Simara có vẻ như tận dụng thời gian mưa để ở trong nhà nghỉ ngơi. Tuy vậy, nước đã bắt đầu ngập lên hè đường rồi.
Ichabod lắc đầu, đành quay vào nhà.
– Có lẽ đây cũng là hiện tượng biến đổi khí hậu thôi. Ichabod lẩm bẩm tự trấn an mình.
Nhưng câu chuyện về cơn mưa kỳ lạ đã dập tắt đám cháy trong vụ đốt con tàu Noah của đám Yogev cứ trở đi trở lại ám ảnh anh ta suốt cả ngày. “Chuyện này giải thích thế nào nhỉ? Liệu những hiện tượng kỳ lạ này chúng có gì liên quan đến nhau không?”. Trong khi đó, mưa vẫn rơi. Mưa rơi càng lâu, Ichabod càng thấy khó ở. Giấc ngủ đêm ấy của anh ta chập chờn mộng mị.
Mưa vẫn tiếp tục rơi qua đêm… đến sáng hôm sau thì nước đã tràn vào từng nhà. Ngay cả ngôi nhà có nền cao ráo của Ichabod cũng không ngoại lệ.
Từ các ngôi nhà trong thành Simara, dân cư túa ra đường, rời khỏi chốn nương náu của mình như những đàn chuột rời chiếc tàu đắm, bởi vì trời vẫn mưa xối xả và nước vẫn từ từ dềnh lên. Hàng đoàn cư dân bì bõm lội ra khỏi ngôi thành lụt, tìm chỗ đất cao hơn, trong đó có cả gia đình Ichabod, họ vừa lội nước vừa oán trời trách đất.
Ngoài cổng thành Simara lúc này đã đông đặc những người mình mẩy ướt đẫm dưới cơn mưa nặng hạt.
Bỗng “đoànggg…”, một tiếng sấm nổ kinh thiên động địa trên bầu trời dày đặc mây đen, sau đó là liên hoàn những tiếng nổ đinh tai nhức óc, những tia sét dài loằng ngoằng đỏ lòe, chạy dọc ngang như muốn xé cả bầu trời ra thành từng mảnh.
Rồi trong sự kinh hoàng của loài người, những dòng thác nước cuồn cuộn từ trên mây cao tít giội xuống mặt đất, tưởng như các cửa sổ nhà trời mở toang ra cho nước trong vũ trụ dồn hết xuống nhân gian.
– “Noah, mau chạy về tàu của Noah”. Không biết ai là người đầu tiên thét lên tiếng ấy. Có lẽ là Ichabod. Thế là cả đám người đông nghịt, hỗn độn ấy vừa la hét kinh hoàng vừa chạy thục mạng về phía con tàu nhà Noah ở phía xa xa.
Nhưng bỗng mặt đất rùng rùng chuyển động rồi đột nhiên nứt toác ra nhiều chỗ, há hoác thành những miệng vực sâu thẳm, rồi từ dưới lòng đất bật tung lên những mạch nước ngầm vĩ đại chắn lối họ đến con tàu của Noah. Những kẻ chạy trước nhất bị thổi tung lên trời chẳng khác gì những cái mạt cưa nhỏ xíu.
Đám đông tan tác mạnh ai nấy chạy, tản về những chỗ đất cao gần đó, lên đồi, rồi lên những ngọn núi ở ngoại thành Simara…
….
Gia đình Noah và toàn bộ động vật đã yên vị trên con tàu kể từ khi trời bắt đầu mưa. Lũ thú vật giờ này vẫn đang say ngủ, còn mọi người đã thức dậy, quây quần bên bếp lửa ấm cúng và cùng nhau dùng bữa sáng. Chỉ có Noah vẫn đi đi lại lại trên sàn tàu, khuôn mặt đăm chiêu, đôi mắt thâm quầng. Từ hai ngày nay, bao lần ông muốn rời tàu, băng qua màn mưa để vào thành Simara kêu gọi mọi người một lần nữa nhưng gia đình Noah nhất quyết không cho ông đi. Họ lo lắng cũng phải, cơn lũ chẳng biết sẽ ập đến lúc nào, liệu Noah đi có kết quả gì hay không, hay là chỉ mất mạng vô ích? Noah bất lực đành ở lại tàu. Trong thâm tâm ông biết rằng gia đình mình có lý, thức tỉnh thế nhân đang trong cơn mê quả là một việc muôn vàn khó khăn, công việc ấy từ 50 năm nay chưa từng có kết quả. Nhưng nhìn họ tận diệt thì ông không đành lòng. Lúc này, Noah đành quỳ xuống cầu nguyện.
Bỗng gia đình Noah nghe thấy những tiếng sấm nổ kinh thiên động địa, rồi qua cửa sổ mạn tàu, họ thấy nước từ trên trời cao ào ào đổ xuống, nước từ lòng đất dữ dội phụt lên, trong chốc lát, nước đã tràn ngập khắp chốn rồi ùa đến vây quanh thân tàu. Con tàu cót két chuyển mình. Từ bốn phương tám hướng, những bức tường nước cao như tường thành của Simara sầm sập đổ về, phủ trùm lên con tàu to lớn, sóng gầm lên bất tận, nước réo ào ào, bọt tung trắng xóa, trong chớp mắt, người ta không nhìn thấy con tàu đâu nữa.
Nhưng rồi cũng chỉ trong giây lát, từ trong xoáy nước vĩ đại đó, con tàu nổi bềnh lên trên mặt nước, chòng chành rồi vững vàng trên sóng dữ. Con tàu khổng lồ như trôi đi vào nơi vô định, phó thác hoàn toàn trong sự an bài của Thiên Chúa.
Cả gia đình Noah đã an toàn bên trong thân tàu. Lũ thú vật bị một phen hoảng sợ giờ cũng đã trấn tĩnh lại. Hình như mưa đã tạm ngừng rơi. Nhưng bỗng những âm thanh bên ngoài khiến bọn họ sởn gai ốc. Noah mở cửa chính ở mạn tàu. Trước mắt ông là một cảnh tượng kinh hoàng. Tàu đang trôi ngang qua một ngọn núi trọc đen đặc những người. Phải có đến mấy vạn người đang chen chúc nhau ở đó, chẳng khác gì đàn kiến cuống quýt chạy lên chạy xuống trên cái ụ đất khi nước lụt tràn đến. Nước đã ngập đến quá lưng chừng núi và vẫn tiếp tục dâng cao. Người ta chen nhau, chửi nhau, đánh nhau để giành lấy vị trí cao hơn trên đỉnh núi, cố gắng bám vào một hy vọng sống mong manh. Khắp nơi trên núi là xác người chết. Khắp nơi vang lên những lời rên xiết, than vãn, khóc lóc vật vã, kêu gào thống hận. Tiếng đàn ông gầm thét, tiếng đàn bà tru tréo, tiếng người già khan khan tuyệt vọng, tiếng trẻ ré lên thảm thiết… những âm thanh ai oán, hỗn loạn, ầm ào át cả tiếng sóng dữ nghe như tiếng ma tru quỷ khóc vọng lên từ địa ngục khiến bất cứ ai cũng phải rùng mình. Những người ấy đã nhìn thấy con tàu của Noah, họ cùng quỳ xuống giơ hai tay về phía ông mà gào lên cầu xin ông hãy cứu họ. Và ở gần mép nước nhất là thân hình phục phịch quá khổ của Ichabod. Anh ta cũng quỳ xuống, hai mắt đẫm lệ nhìn Noah mà gào lên:
– Noah ơi, anh hãy cứu em, cứu em với. Chúa ơi, chúng tôi đã làm gì nên tội? Sao lại trừng phạt chúng tôi thế này?
Nhưng con tàu vẫn cứ trôi, vì đấy là mục đích nó được làm ra – trôi nổi chứ không phải để lái đi đến đâu cả. Thế là thay vì cầu xin, người ta căm giận ném theo Noah những lời nguyền rủa.
Một cơn sóng thần to lừng lững như một trái núi nhỏ chùm lên đỉnh núi ken đặc người kia. Sau khi nó đi qua, trên đỉnh núi không còn một bóng người, không còn một tiếng động nào nữa ngoài âm thanh cuồng nộ của sóng và gió. Chỉ còn vô số những thi thể nổi bập bềnh trên sóng.
Trước cảnh tượng đau thương ấy, Noah ngã gục xuống, hai tay ôm mặt, thân hình co quắp lại khóc không thành tiếng rồi bùng lên nức nở:
– Ichabod ơi, các bạn ơi, tôi xin lỗi, xin lỗi…
Và rồi ông ngất đi.
….
Khi Noah tỉnh dậy, con tàu vẫn đang trôi bồng bềnh trên biển nước, mưa vẫn quất sầm sập trên mui tàu trát bằng dầu hắc. Ông đang nằm trong vòng tay của vợ và các con bên ánh lửa bập bùng. Họ đang nhìn ông lo lắng.
Đã hàng tuần nay, Noah ốm nặng. Bao nhiêu năm làm việc vất vả, ông chưa từng ca thán hay gục ngã, lúc nào cũng vững vàng như một cây sồi già, lúc nào cũng là một biểu tượng của ý chí kiên định cho cả gia đình neo bám. Nhưng chứng kiến cái chết khủng khiếp của nhân loại, ông không thể chịu đựng nổi. Ông thương xót những con người lầm lạc, cũng giận mình chưa làm hết sức để cứu họ. Đau thương quá độ khiến Noah rơi vào mê man.
Nhưng rồi Noah cũng dần dần hồi phục. Bên ngoài, mưa vẫn rơi trong suốt 40 ngày kể từ hôm đầu tiên họ lên tàu. Buổi sáng hôm ấy, Noah chậm chạp đi ra ngoài cửa tàu, mở cửa lên nhìn. Mưa vừa tạnh. Bầu trời vẫn u ám. Bên ngoài không còn bất cứ một dấu hiệu gì của đất liền, không có sông hồ, không còn đồi núi, cả thế giới chẳng còn lại gì ngoài mặt nước mênh mông như một tấm vải liệm màu xám, trên đó bập bềnh duy nhất một con tàu gỗ.
Thế rồi, Thiên Chúa cũng khiến nước yên lặng. Ngài làm ngưng lại các mạch nước đổ xuống từ trời cao. Mưa đã dừng hẳn. Suốt hơn sáu tháng, con tàu tiếp tục trôi dập dềnh trên mặt nước thinh lặng. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống trên thế giới. Rồi chầm chậm, nước lụt cũng dần rút đi trong 150 ngày. Vào ngày 17 của tháng thứ 7 tính từ khi trời bắt đầu mưa, con tàu của Noah đã đậu lại trên vùng núi non xứ Ararat của vùng Lưỡng Hà (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Tới ngày đầu tiên của tháng thứ 10, nước đã rút khá nhiều đến mức, từ con tàu nhìn ra có thể thấy các đỉnh núi phía xa xa.
Vào ngày thứ 40 kể từ khi con tàu đậu lại trên đỉnh núi Ararat, Noah đã mở cửa sổ của con tàu và thả ra ngoài một con quạ. Ông thấy nó bay lòng vòng trong bầu trời quạnh vắng. Dù chẳng thấy có vùng đồng bằng nào để trú chân cho sinh vật độc nhất ở bên ngoài ấy, nhưng con quạ không trở về. Thế là Noah thả một con bồ câu, vì biết nơi nào có đất khô thì bồ câu sẽ đáp xuống. Bồ câu cũng đành quay lại tàu. Vì thế, đợi thêm bảy ngày, Noah lại thả bồ câu đi một lần nữa. Lần này nó bay trở về tàu vào lúc chiều tối, trên mỏ ngậm một chiếc lá olive non. Noah bồi hồi nhớ đến vườn olive xưa của gia đình mình, lòng ông lại càng thêm thôi thúc ước mong quay trở lại mặt đất. Ông cũng biết rằng ở đâu đó, nước đã rút khỏi mặt đất khiến cho những cây olive có thể nhô lên để sống được. Tuy vậy, ông cũng chờ thêm bảy ngày mới thả con bồ câu ra một lần nữa, lần này nó không quay trở về.
Vậy là vào ngày đầu tiên sau sinh nhật lần thứ 600 của cuộc đời Noah, ông đã rời khỏi con tàu, chạm chân xuống mặt đất của đỉnh núi Ararat. Một thế giới mới đầy lạ lùng trải ra trước mắt ông. Noah phóng tầm mắt nhìn về phía chân trời xa tít, trong không gian trong veo, cảnh vật hiện lên rõ mồn một. Ánh bình minh đang lên dần, chiếu sáng một thế giới đang dần được bao phủ bằng một màu xanh ngăn ngắt của cây cỏ. Noah ngước mặt lên trời, nhắm mắt lại và hít căng lồng ngực. Ôi chao! không khí mới tinh khiết làm sao, hình như trong gió đã thoang thoảng mùi hoa cỏ đồng nội. Ngay lúc đó, một vầng hào quang xán lạn bao trùm lấy đỉnh núi, Thiên Chúa xuất hiện và truyền bảo:
– Này Noah, hãy ra khỏi tàu, mang theo vợ con ngươi cùng hết thảy chim chóc, thú vật, bò sát, côn trùng. Hãy thả chúng trên mặt đất để chúng lại sinh sôi nảy nở đông đúc trở lại.
Vâng lời Thiên Chúa, Noah mở cửa lớn để cho từng đàn thú vật ra khỏi tàu, đặt chân lên vùng đất khô ráo, tinh khiết. Rồi thế giới sẽ lại sớm sống động như xưa.
Trên mặt đất, Noah lập một tế đàn để cảm tạ Thiên Chúa với lòng biết ơn vì đã được cứu thoát. Thiên Chúa lấy làm hài lòng với những gì diễn ra trong tâm hồn con người ngay lành và chính trực ấy. Ngài chúc lành cho Noah và gia đình ông cũng như ban cho họ đất đai cùng những gì sống động trên mặt đất.
Rồi Thiên Chúa khoát tay, lập tức xuất hiện một vòng cung lớn với nhiều màu sắc rực rỡ uốn cong trên bầu trời. Ngài tuyên bố:
– “Đây là dấu biểu hiệu cho lời giao ước giữa chúng ta. Ta lập tức giao ước với các ngươi, với tất cả những sinh vật được các ngươi mang theo mình, và với con cái mọi thời của các ngươi. Ta đặt cầu vồng của ta trên bầu trời như một vật nhắc nhở tới lời giao ước của ta đối với mọi sinh linh trên đất. Khi thấy nó, các ngươi sẽ nhớ điều ta đã nói với các ngươi và sẽ biết rằng ta đang nhớ. Và đây là lời thề mãi mãi: Nước sẽ không bao giờ còn dâng thành lụt quét sạch mọi sinh linh. Sẽ không bao giờ có nữa một trận lụt Đại Hồng Thủy tiêu hủy con người khỏi mặt đất”.(1)
Chắc hẳn sẽ không còn Đại Hồng Thủy nào nữa, nhưng Noah biết một điều rằng: nền văn minh của nhân loại là gắn liền với tình trạng đạo đức của họ. Đại Hồng Thủy đã lưu lại một bài học giáo huấn sâu sắc của Thần cho muôn đời: “Chừng nào thế nhân còn giữ được đạo đức của mình thì chừng ấy nền văn minh của họ vẫn tồn tại và phát triển. Và ngược lại”.
Noah biết đó là trách nhiệm giáo dục của mình cho các con và rồi đến lượt chúng lại phải giáo dục các con chúng về đạo đức, về truyền thống và đức tin vào Thần… và cứ thế mãi. Nhưng giờ đây Trời mới, Đất mới tinh khôi với những con người tốt đẹp đang vẫy gọi Noah. Ông thong thả cất bước cùng gia đình thân yêu của mình. Dưới ánh nắng ban mai vàng óng như tơ, trong bầu không khí trong vắt sảng khoái, họ cười vang đầy háo hức và tiến sâu vào vùng bình nguyên xanh ngắt.
Theo NTD