Trong văn hóa truyền thống, hôn nhân mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng và thần thánh. Bởi người xưa quan niệm rằng, hôn nhân giữa nam và nữ là do Trời, Đất, âm, dương phối hợp mà thành.
Cổ nhân coi, hôn nhân nam nữ là nền tảng của luân lý làm người và phù hợp với Đạo của Trời Đất. Bởi vậy, khi kết hôn, vợ chồng phải bái lạy Trời Đất, Thần linh, tổ tiên, cha mẹ vừa là để tạ ơn vừa là để chứng giám cho lời thề của họ. Nếu vi phạm lời thề sẽ bị Thần linh trừng phạt.
Trong cuộc sống hôn nhân, yêu cầu người chồng và người vợ phải một lòng một dạ, vô luận là bần cùng hay bệnh tật đều sống cùng nhau, thực hiện lời thề hẹn của mình. Thời cổ đại, người ta coi việc kết hôn là chuyện của cả đời bởi vì họ tin rằng người nào vứt bỏ và phản bội thệ ước sẽ gặp phải báo ứng.
Trong lịch sử có rất nhiều tấm gương điển hình, dù giàu sang, vinh hiển nhưng không từ bỏ người vợ xấu xí, bần hàn của mình.
Được ban vợ trẻ, cũng không đồng ý bỏ người vợ già
(Hình minh họa: Qua health99.net)
Danh Cung, tự là Kính Đức, là người Thiện Dương, Sóc Châu (nay thuộc Sơn Tây), là một trong những chiến tướng nổi tiếng nhất thời kỳ Tùy Đường. Ông vốn là thuộc hạ của thủ lĩnh Tống Kim Cương. Về sau, Tống Kim Cương bại trận phải bỏ chạy để lại Kính Đức giữ thành.
Sau khi Đường Thái Tông kế vị, ngưỡng mộ tấm lòng trung thành và dũng cảm của Kính Đức nên đã chiêu mời ông. Sau đó, phong cho ông làm ngô quốc công, sau là phong ngạc quốc công. Ông cùng với Trưởng Tôn Vô Kỵ, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối nắm giữ việc triều chính. Sau khi Kính Đức qua đời, được ban hiệu là “Trung Võ”.
Khi còn sống, Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì muốn ban thưởng cho công lao của Kính Đức nên từng hỏi: “Trẫm muốn gả con gái trẫm cho khanh, không biết ý khanh thế nào?”
Kính Đức khấu đầu tạ ơn rồi nói: “Vợ thần mặc dù quê mùa xấu xí, dốt nát, nhưng là người cùng với thần trải qua cuộc sống bần cùng, hoạn nạn nhiều năm. Thần tuy không học vấn, không tài cán, nhưng từng nghe cổ nhân nói: “Giàu không đổi vợ”. Thần nguyện noi gương cổ nhân, không thể từ bỏ người vợ già của mình.”
Đường Thái Tông nghe xong lời nói tâm huyết của Kính Đức càng thêm trân trọng ông và cũng từ bỏ ý định.
Không bỏ người vợ thuở bần hàn để làm chồng công chúa
(Hình minh họa: Qua lishiquwen.com)
Tống Hoằng, tự là Trọng Tử là người Trường An (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là vị quan nổi tiếng vào những năm đầu của triều đại Đông Hán. Sau khi Hán Quang Vũ Đế lên ngôi, Tống Hoằng được phong làm Thái Trung Đại phu, về sau lại làm đến chức Đại Ti Không.
Ông dùng tất cả tiền của bổng lộc mình có để giúp đỡ, nuôi dưỡng người trong dòng họ. Trong nhà ông gần như không có một tài sản, của cải. Ông nổi tiếng là người đức hạnh, thanh liêm.
Lúc ấy, chồng của công chúa Hồ Dương, chị của Quang Vũ Đế mất. Quang Vũ Đế thường mời chị vào cung gặp mặt, nói chuyện về các quân thần để thăm dò xem chị mình muốn tìm một tướng công như thế nào.
Một hôm, lúc hai người đang đàm luận về các vị đại thần, công chúa nói: “Tống Hoằng có tướng mạo và phẩm đức, tài trí đều xuất chúng, đại thần trong triều quả thật không ai sánh bằng.”
Quang Vũ Đế sau khi biết ý tứ của chị gái, liền triệu kiến Tống Hoằng đến, rồi bảo công chúa Hồ Dương ngồi phía sau tấm bình phong nghe hai người họ nói chuyện.
Quang Vũ Đế nói với Tống Hoằng: “Tục ngữ nói: Con người khi sang quý thì đổi bạn, khi giàu có thì đổi vợ. Đây là lẽ thường tình của con người. Khanh có hiểu tâm ý của Trẫm không?”
Tống Hoằng đáp: “Thần cũng có nghe nói rằng, bạn thuở bần tiện là không thể quên, người vợ tào khang là không thể bỏ”
Nghe xong lời này của Tống Hoằng, Quang Vũ Đế cũng hiểu được ý tứ của ông. Quang Vũ Đế sau đó nói với chị gái: “Việc này không thành được!”
Tể tướng Yến Anh một lòng một dạ
Yến Anh là nhà tư tưởng, nhà ngoại giao nổi tiếng của nước Tề, được vua Tề Cảnh Công rất coi trọng.
Một lần, Vua Tề Cảnh Công đến nhà Yến Anh làm khách. Lúc hai người đang uống rượu, Cảnh Công nhìn thấy vợ của Yến Anh đi qua, liền hỏi: “Đó là thê tử của khanh à?”.
Yến Anh trả lời: “Đúng vậy”.
Cảnh Công cười và nói: “Cô ta vừa già lại vừa xấu. Ta có một đứa con gái, tuổi còn trẻ lại xinh đẹp. Ta nghĩ chi bằng gả cho khanh.”
Yến Anh nghe xong, lập tức đứng dậy, cung kính trả lời: “Hiện giờ, vợ của thần vừa già vừa xấu, nhưng xưa kia khi nàng còn trẻ đẹp đã cùng thần chung sống lâu dài. Hơn nữa, làm vợ vốn dĩ là trao thân gửi phận cả đời, từ lúc trẻ trung xinh đẹp cho đến lúc già nua xấu xí. Vợ thần khi còn trẻ đã phó thác cuộc đời cho thần, thần đã tiếp nhận lòng tin cậy ấy. Quân Vương tuy rằng hiện giờ muốn ban thưởng, nhưng làm sao thần có thể phụ bạc lòng tin của thê tử được?”
Yến Anh bái mấy bái xin tạ ơn và từ chối Tề Cảnh Công. Tề Cảnh Công thấy Yến Anh dứt khoát, coi trọng tình nghĩa vợ chồng như vậy nên từ đó trở đi cũng không nhắc lại thêm lần nào nữa.
Có một lần, Điền Vô Vũ, vị tông chủ thứ năm của họ Điền gặp Yến Anh ở nhà một mình và gặp một người phụ nữ trong nhà bước ra, quần áo giản tiện, mái tóc đã bạc. Điền Vô Vũ chế giễu Yến Anh, nói: “Người đàn bà đó là ai vậy?”
Yến Anh trả lời: “Là thê tử của ta”.
Điền Vô Vũ nói: “Ngài là quan lớn trong triều, thực ấp điền thuế thu vào bảy mươi vạn, tại sao lại nhận bà lão này làm vợ?”.
Yến Anh trả lời, “Ta nghe nói, bỏ rơi một người vợ già là loạn đạo, thú vui lấy thêm thê thiếp trẻ tuổi là dâm đãng. Thấy sắc đẹp mà bội nghĩa, thấy phú quý vứt bỏ luân thường thì đó là nghịch đạo. Yến Anh ta làm sao có thể có hành vi dâm loạn, coi thường luân lý, đi ngược lại với lời dạy của cổ nhân như thế được?”.
Theo Trithucvn biên dịch