Vật liệu sinh học kỳ diệu và những khám phá mới về hình học nhãn khoa đã dẫn dắt giáo sư Ernst Muldashev và những nhà khoa học Nga dấn thân vào hành trình đến Himalaya để khám phá nguồn gốc loài người. Những điều ông khám phá ra về người Atlan, người Lemuria… giúp giải đáp nhiều bí ẩn về các nền văn minh cổ đại.
Như ta đã nói ở phần 2, đạo sư Daram đã cho Giáo sư Muldashev biết rằng trên Trái Đất có ít nhất 22 nền văn minh tiền sử với trình độ phát triển cao đã từng tồn tại và bị hủy diệt; và loài người chúng ta hiện nay thoát thai từ người Atlan. Những người Atlan có tâm hồn thuần khiết có thể bảo toàn thân thể mình ở trạng thái nhập định trường kỳ (xô-ma-chi) khi xảy ra thảm họa, sau khi thảm họa qua đi thì linh hồn họ có thể quay lại, nhập vào thân xác bất động, sống trở lại và gieo hạt giống cho nền văn minh lần này.
Trong quá trình truy tìm nguồn gốc loài người, Giáo sư Ernst Muldashev đã nghiên cứu các tài liệu của Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), người phụ nữ Nga được coi là một nhà huyền bí học, nhà triết học và người đồng sáng lập Hội huyền minh học (còn gọi là Thông thiên học). Blavatsky có nhiều tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm “Học thuyết bí mật” (Secret Doctrine) trình bày những kiến thức mà bà thu nhận được trong quá trình viễn du khắp các nước trên thế giới và kết nối với các vị Sư phụ tâm linh từ Ấn Độ.
Blavatsky và tác phẩm Học thuyết bí mật (nguồn: Internet)
Dưới đây là những điều Muldashev phát hiện về một phần về nguồn gốc loài người được đề cập trong tác phẩm “Học thuyết bí mật”:
Blavatsky cho rằng có 5 chủng tộc đã và đang tồn tại trên Trái Đất. Trái Đất đã xảy ra 4 chu kỳ phát triển, kết thúc mỗi chu kỳ bởi một đại thảm họa. Mỗi thảm họa tương ứng với sự dịch chuyển lớn của trục Trái Đất. Mỗi chu kỳ gắn liền với sự tồn tại và diệt vong của một chủng tộc người. Sau đây là 5 chủng tộc người mà Blavatsky đề cập:
Năm chủng người trong lịch sử Trái Đất theo Blavatsky
+ Chủng tộc người đầu tiên, đã xuất hiện trên Trái Đất dưới dạng những thể nhẹ nhàng do thế giới tâm linh – tức thế giới của năng lượng tinh thần cô đặc. Đó là những sinh mệnh giống như thiên thần hơn so với giống người hiện nay, có thể dễ dàng đi qua tường và các vật rắn khác. Trông họ như các hình hài không xương thịt, tự phát sáng như ánh trăng và có chiều cao 40 – 50 mét. Con người thuộc chủng tộc thứ Nhất được cấu tạo không bằng thứ vật chất như của người trần mắt thịt chúng ta, nó có tính sóng nhiều hơn. Người chủng tộc đầu tiên sinh sản vô tính, bằng cách phân chia và đâm chồi. Họ không có ngôn ngữ, giao tiếp bằng cách “truyền ý nghĩ”. Họ có thể kết nối trực tiếp đến Chúa Trời thông qua con “mắt thứ ba”.
+ Chủng tộc thứ Hai, gọi là “người không xương”, xuất hiện thay thế chủng tộc đầu tiên. Những người này cũng giống như thiên thần, nhưng đặc hơn chủng tộc thứ Nhất. Họ giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ. Người chủng tộc thứ Hai vàng óng ánh. Sinh sản bằng cách đâm chồi và hình thành bào tử, nhưng cuối giai đoạn sống của chủng tộc người thứ Hai xuất hiện người lưỡng giới tức là người đàn ông và người đàn bà ở trong cùng một thân thể. Con mắt thứ ba của họ rất phát triển.
+ Chủng tộc người thứ Ba, gọi là “Lemuria”, thay thế chủng tộc người thứ Hai, chia thành Lemuria sơ kỳ và Lemuria hậu kỳ.
Người Lemuria sơ kỳ cao đến 20 mét và thể xác của họ đặc hơn nhiều nên không thể gọi là thiên thần được nữa. Họ có xương. Người lưỡng giới này tích lũy dần các dấu hiệu nam tính, một số trường hợp khác tích lũy dấu hiệu nữ tính, kết quả là có sự phân chia giới và xuất hiện sinh sản sinh dục. Trong những người Lemuria sơ kỳ, [một số người] có hai đầu và bốn tay. Họ có màu vàng óng ánh. Giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ.
Người Lemuria hậu kỳ hoặc người Lemuria – Atlan là những người có nền công nghệ phát triển cao hơn cả trên Trái Đất. Ví dụ công trình của họ có thể bao gồm tượng Nhân sư ở Ai Cập, khu phế tích khổng lồ ở nước Anh, một số tượng ở Nam Mỹ, v.v… Chiều cao người Lemuria hậu kỳ là 7-8 mét. Họ có hai mắt và hai tay. “Con mắt thứ ba” tụt vào trong sọ. Nước da có màu vàng hoặc đỏ. Họ nói thứ tiếng đơn âm mà hiện nay dân chúng vùng Đông-Nam của Trái Đất vẫn sử dụng.
Blavastky cho rằng con cháu của người Lemuria hậu kỳ là thổ dân đầu phẳng của Châu Úc, họ đã sống sót và phát triển theo hướng hoang hóa trên lục địa Úc biệt lập từ thời xa xưa.
+ Chủng tộc thứ Tư là người Atlan. Người Atlan được sinh ra thời Lemuria hậu kỳ (Lemuria – Atlan). Người Atlan có hai mắt bình thường, còn “con mắt thứ ba” nằm sâu trong sọ, nhưng hoạt động tốt. Họ có hai tay. Cao 3 – 4 mét, nhưng đến cuối giai đoạn sinh tồn của người Atlan, họ nhỏ đi. Một bộ phận người Atlan có màu da vàng, một bộ phận màu đen, một bộ phận nâu và một bộ phận màu đỏ.
Vào các thời kỳ cuối cư dân Atlantis phần lớn là người Atlan da vàng và da đen, họ đánh nhau thường xuyên. Ban đầu họ nói thứ tiếng ngưng kết, hiện giờ một vài bộ lạc thổ dân Nam Mỹ vẫn dùng. Sau này phát triển dần thành ngôn ngữ biến hình tức ngôn ngữ phát triển cao, là cơ sở của các ngôn ngữ hiện đại. Ngôn ngữ biến hình của người Atlan là gốc gác của tiếng Phạn bây giờ, là ngôn ngữ thần bí của các Bậc được bí truyền (những người thực hành tín ngưỡng có thể kết nối với các trí tuệ bậc cao – theo cách gọi của Muldashev).
+ Chủng tộc người thứ Năm, tức chủng tộc chúng ta, trong thư tịch thần bí gọi là chủng tộc Aryan, xuất hiện khi vẫn còn người Atlan hậu kỳ. Một bộ phận lớn chủng tộc thứ Năm trở nên hoang dã và không thể sử dụng kinh nghiệm của người Atlan để tự phát triển. Người chủng tộc thứ Năm ban đầu cao đến 2 – 3 mét, sau nhỏ dần. “Con mắt thứ ba” hoàn toàn không còn chức năng gì, kết quả là mất liên lạc với Chúa trời và không thể sử dụng được những kinh nghiệm thu nhận được từ đó. Người chủng tộc thứ Năm dần dần có ngoại hình của người ngày nay.
Hình vẽ của Muldashev mô tả 3 chủng người Lemuria, Atlan và Aryan đang nhập xô-ma-chi (nguồn: Muldashev)
Người Lemuria và người Atlan thực sự có tồn tại?
Năm 1864, luật sư, nhà động vật học người Anh Philip Lutley Sclater đề xuất rằng từ xa xưa, Ấn Độ, Châu Phi và Madagascar là các phần của một lục địa đã biến mất có hình tam giác trải rộng nam Ấn Độ Dương. Sclater gọi lục địa này là Lemuria (xuất phát từ tên tiếng Anh của loài vượn cáo – Lemur). Ông cho rằng lục địa này đã chìm xuống đáy Ấn Độ dương.
Trước đó, Plato, nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại (khoảng 427-347 TCN) đã đề cập rằng trong quá khứ đã tồn tại một hòn đảo ở Đại Tây Dương có nền văn minh Atlantis phát triển rực rỡ, là đối thủ xứng tầm trong chiến tranh của người Hy Lạp cổ đại. Nhưng hòn đảo này đã chìm xuống đáy biển chỉ trong một ngày và một đêm bởi động đất và lũ lụt vào 9.000 năm trước thời của ông.
Hình vẽ mô phỏng thành phố Altantis, thủ phủ của lục địa Atlantis (ảnh: atlantisbolivia.org)
Năm 2017, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các phần của một lục địa cổ chìm dưới đáy Ấn Độ Dương qua việc phát rằng dưới lớp dung nham có tuổi thọ 8 triệu năm tuổi của đảo núi lửa Mauritius là một lớp vỏ lục địa có tuổi thọ 3 tỷ năm tuổi. Rất có thể Mauritius là một phần của lục địa Lemuria đã bị chìm.
Đã có vô số nghiên cứu và tranh luận về vị trí và nguồn gốc của nền văn minh Atlantis trong giới khoa học. Tuy vậy, phát hiện về lục địa Atlantis của nhà khảo cổ Jim Allen đến từ ĐH Cambridge cho thấy nền văn Atlantis đã thực sự tồn tại và bị hủy diệt (xem loạt bài Cuộc tìm kiếm thành phố Atlantis).
Shirley MacLaine là nữ diễn viên Hoa Kỳ đoạt nhiều giải Oscar và cũng viết nhiều sách về ký ức tiền kiếp. Trong các tác phẩm của mình, bà cho biết đã từng là một cư dân của Lemuria
Không chỉ có Blavatsky, Shirley MacLaine, mà các tác giả như Lạt ma Lobsang Rampa (trong tác phẩm Hang động của người cổ đại), Blair T. Spalding (trong tác phẩm Hành trình về phương Đông) đều khẳng định sự tồn tại của hai lục địa và hai nền văn minh có tên là Lemuria và Atlantis.
Hình vẽ mô phỏng Lemuria là 1 lục địa đã bị chìm ở Ấn Độ Dương (ảnh: quorancd.net)
Công nghệ của người Lemuria khổng lồ trong quá khứ
Tại thành phố Luxor cách thủ đô Cairo của Ai Cập hơn 500km còn sót lại 2 tượng đài (Obelisk) bằng đá, một chiếc cao 29m nặng 330 tấn tại khu phức hợp đền Karnak, một chiếc cao 25m, nặng khoảng 280 tấn tại khu đền Luxor. Cả hai tượng đài này đều được làm bằng đá granite nguyên khối, bề mặt mài nhẵn và được chạm khắc các hình tượng với nét khắc vô cùng tinh xảo và chính xác.
Một tượng đài bằng đá cao 25m còn sót lại bên trái lối vào đền Luxor, Ai Cập (tượng đài bên phải đã bị chuyển về Paris, Pháp) (ảnh qua: amazonaws.com)
Tại khu mỏ đá ở Aswan, cách Luxor hơn 200km, còn có một tượng đài bằng đá granite nguyên khối dài 42m, nặng khoảng 1.200 tấn đang được chế tác dở.
Người ta vẫn cho rằng các tượng đài bằng đá và các công trình đá bao gồm cả Đại kim tự tháp là sản phẩm của các triều đại Ai Cập cách đây khoảng hơn 4.000 năm.
Đền thờ Karnak ở Luxor với những cột trụ đá granite nguyên khối cao đến 25m, nặng hàng trăm tấn, nơi có tượng đài bằng đá cao 29m nặng 330 tấn (nguồn: wikimedia.org)
Tuy nhiên, kể cả với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay, việc khai thác, chế tác, di chuyển, lắp đặt các tượng đài bằng đá nguyên khối nặng hàng trăm, hàng ngàn tấn như ở Luxor và Aswan vẫn là điều cực kỳ khó khăn, huống chi là con người Ai Cập cách đây 4.000 năm. Có thể khẳng định rằng nền văn minh Ai Cập chu kỳ lần này không đủ trình độ để tạo ra những công trình như vậy.
Vậy ai là người đã tạo nên những công trình này?
Ai có thể chế tạo, di chuyển tượng đài bằng đá nguyên khối dài 42m, nặng 1.200 tấn này? (nguồn: luxorandaswan.org)
Ở khu lăng mộ Rekhmire thuộc thành phố Luxor, người ta thấy những hình ảnh hấp dẫn trong những bức phù điêu. Nếu nhìn thoáng qua, ta sẽ thấy hình ảnh này cũng khá bình thường với những con người có tầm vóc bình thường.
Tuy nhiên, nếu so sánh tương quan của những người đàn ông với những động vật trong hình thì sẽ phát hiện thấy “điều kỳ lạ”. Đó là những người đàn ông cao ngang với chú hươu cao cổ. Một con voi cũng chỉ cao bằng một nửa người đàn ông, và các con báo, khỉ đầu chó thì nhỏ hơn một cách tương ứng.
Hình vẽ trên phù điêu tại lăng mộ Rekhmire ở Luxor, Ai Cập mô tả kích thước người Ai Cập cổ đại to lớn đặc biệt khi tương quan với các động vật lớn như hươu cao cổ, voi…
Ta biết rằng hươu cao cổ có chiều cao khoảng 4,8 đến 6m và một con voi có chiều cao khoảng 2,5m. Như vậy, những người đàn ông trong hình có chiều cao ít nhất là 5m.
Thêm nữa, ở đây cũng có hình ảnh mô tả 2 người đàn ông đang xây dựng 2 tượng đài bằng đá. Điều này chứng tỏ họ phải có chiều cao khổng lồ.
Hình vẽ trên phù điêu tại lăng mộ Rekhmire ở Luxor, Ai Cập mô tả người Ai Cập có chiều cao tương đương với các tượng đài bằng đá khổng lồ
Tại khu đền thờ Quốc vương Seti I ở Abydos, Ai Cập, trên một góc tường có chạm khắc những hình ảnh rất thú vị. Phân tích hình ảnh đó người ta dễ nhận ra rằng chúng rất giống với các phương tiện giao thông hiện đại ngày nay, như máy bay trực thăng, xe tăng, khinh khí cầu và tàu lượn.
Các ký tự tượng hình miêu tả những vật thể trông rất giống máy bay trực thăng, xe tăng, khinh khí cầu và tàu lượn (hình dưới) (nguồn: ancient-code.com)
Trong cuộn giấy cói được cho là có 3.000 năm tuổi mang tên “Djedkhonsuiefankh” được trưng bày tại Bảo tàng Cairo, Ai Cập, người ta thấy xuất hiện một vật thể kỳ lạ. Theo miêu tả trong tranh, vật thể này có hình dáng thuôn tròn, với 3 chân trụ (chân chống), cùng hai cánh chìa ra hai bên. Nó đang phát sáng rực rỡ. Có thể nói nó có hình dáng bề ngoài khá giống một UFO hình đĩa bay.
(Nguồn: ancient-code.com)
(Nguồn: ancient-code.com)
Ngoài những dấu vết trình bày bên trên, ta cũng biết được rằng các Đại kim tự tháp ở Giza, Ai Cập là những công trình vĩ đại đòi hỏi trình độ rất cao mới có thể chế tạo được, những người Ai Cập cách đây 4.000 khổng thể là tác giả của những kim tự tháp này.
Như vậy, thông tin những người khổng lồ Lemuria hậu kỳ với trình độ văn minh và công nghệ rất cao đã xây dựng lên những công trình đá khổng lồ, tinh xảo ở Ai Cập như các khu đền thờ, các tượng đài bằng đá, Đại kim tự tháp và tượng nhân sư ở cao nguyên Giza mà Giáo sư Muldashev dẫn theo lời của Blavatsky là hợp lý.
Không chỉ có người khổng lồ tồn tại trong quá khứ
Mùa hè năm 1948, chuyên gia hóa thạch nghiệp dư người Mỹ đã phát hiện một hóa thạch của bọ ba thùy (tồn tại cách đây 600 cho đến 260 triệu năm) ở Antelope Springs, Utah, Mỹ, nhưng ông còn phát hiện ra một dấu giày nguyên vẹn có chiều dài 26cm, rộng 8,9cm in trên chú bọ ba thùy.
Dấu chân hóa thạch dẫm lên một con bọ ba thuỳ
Trong một phát hiện tương tự nhưng thú vị hơn, năm 1927 một nhà địa chất học nghiệp dư ở Mỹ đã phát hiện khối hóa thạch mang dấu giày có niên đại khoảng 225 triệu năm ở hẻm núi Fisher, Nevada có đường may chỉ đôi song song cách nhau 8mm.
Dấu giày với đường may đôi hóa thạch cách đây 225 triệu năm ở hẻm núi Fisher, Nevada, Hoa Kỳ (ảnh: ancient-code.com)
Những thông tin nói trên cho thấy rằng cách đây hàng triệu năm, không chỉ có những người khổng lồ có trình độ văn minh rất cao mà còn có cả những người có thân hình bình thường như con người hiện tại với trình độ văn miinh nhất định đã cùng tồn tại trên Trái Đất này.
Đón xem phần 4.