Con người đã phá hủy một phần linh hồn trên mảnh đất này, tình trạng phân bố nước mưa trên trái đất cũng đã thay đổi, thời tiết ngày càng nóng lên, khả năng sinh sản của thực vật và động vật liên tục giảm sút và đang đối mặt với sự tuyệt chủng, cơ chế tuần hoàn của tự nhiên đang tan rã. Bộ tộc Chân Nhân mong mỏi con người chúng ta hãy thực sự nhìn lại cách sống của bản thân. Họ hy vọng, trước khi trái đất huỷ diệt, nhân loại có thể tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề.
Trong cuộc sống bạn có hay gặp tình huống trùng hợp tới kinh ngạc? Ví dụ như khi đang tản bộ trên phố cùng bạn bè, ta đang muốn ngâm nga một bài hát thì người bạn đột nhiên hát đúng bài đó trước; khi đang nhắc tới ai đó thì người đó chợt xuất hiện. Cặp tình nhân khi tạm biệt nhau, quay lưng đi, khi quay người lại phát hiện ra người kia cũng quay lại ngoái nhìn. Nhiều người gọi đó là ‘thần giao cách cảm’. Những người theo chủ nghĩa thần bí thì gọi đó là ‘siêu năng lực’, hay ‘trực giác’, ‘dự cảm’, ‘giác quan thứ sáu’. Điều đó có nghĩa là giữa hai người với nhau, không cần dùng tới 5 loại giác quan là thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác; mà dùng giác quan thứ 6 để truyền tải tư duy và thông tin nhận thức. Chúng thường xảy ra với những người có quan hệ vô cùng thân thiết với nhau, ví như anh em sinh đôi, mẹ con hoặc các cặp đôi…
Tuy nhiên, trên thế giới, có giả thuyết cho rằng có một bộ tộc hoàn toàn dùng thần giao cách cảm làm phương thức giao tiếp chủ yếu. Họ là những người thổ dân sống ở vùng hoang dã cổ đại của châu Úc, gọi là bộ tộc ‘Real people’ hay còn gọi là ‘Chân Nhân’. Bộ tộc Chân Nhân cho rằng thần giao cách cảm là cách giao tiếp mà con người vốn sinh ra đã có.
Nếu như nhân loại có thể làm được giao tiếp trái tim truyền trái tim với nhau, sẽ không tồn tại những rào cản về ngôn ngữ và chữ viết. Vì vậy, người của bộ tộc này ai cũng không biết chữ, không có thừa hưởng về chữ viết. Họ cho rằng chữ viết là một trở ngại, cản trở trí huệ và ký ức. Họ không có tham vọng và cũng không có dục vọng theo đuổi thành công thế tục, không làm kinh doanh, cũng không có quan niệm thời gian. Nhưng họ có tín ngưỡng và tập tục truyền thống của mình. Chính phủ giúp họ xây dựng nhà nhưng họ không quen ngủ trong đó nên dùng nhà làm thành nhà kho, chất thức ăn tìm được vào đó. Bản thân họ thì vào buổi tối sẽ ngủ ở dưới gốc cây.
Xét từ góc độ văn minh, họ là một tộc người sống biệt lập với thế giới và thiếu văn minh. Nhưng so với cuộc sống của thế giới văn minh, họ không có sự tranh giành, đố kỵ giữa người với người; không có việc kẻ tranh người đoạt vì quyền lợi; không có rắp tâm giành cái tốt về mình. Vì vậy, bộ tộc người này cho rằng họ mới là con người chân chính; còn con người chúng ta trong xã hội ngày nay chỉ là ‘người biến chủng’ – nghĩa là những con người hiện đại đã mất hết ký ức và chân lý cổ xưa.
Tư tưởng của tộc người Chân Nhân đơn giản, sáng suốt, sống hài hoà với thiên nhiên. Họ sống hài hoà như thế nào? Họ không đem theo lương thực bên mình, cũng không trồng ngũ cốc, nhưng kỳ lạ là họ chưa bao giờ thiếu lương thực. Người hiện đại thực sự khó có thể hiểu được cách sống của người bộ tộc Chân Nhân này. Ngày nay, số lượng thổ dân ở miền Trung Úc ngày càng ít, họ cũng biết trên thế giới có thảm hoạ và vẫn lặng lẽ quan sát. Họ nói rằng ‘Bộ lạc Chân Nhân sẽ rất nhanh chuẩn bị rời khỏi trái đất, không sinh sản nữa. Khi người trẻ nhất trong bộ lạc qua đời cũng sẽ đại biểu cho việc bộ lạc thuần khiết nhất của nhân loại này sẽ biến mất khỏi trái đất. Trước khi họ biến mất, họ muốn truyền đạt những thông điệp quan trọng tới cho con người thế giới văn minh’.
Vậy người bộ tộc Chân Nhân sinh sống thế nào, và họ có những thông điệp quan trọng gì muốn gửi tới chúng ta?
Âm thanh nơi hoang dã
Nhắc tới bộ lạc Chân Nhân ở châu Úc, chúng ta không thể không nhắc tới một nhân vật rất quan trọng – Marlo Morgan. Bà là một bác sĩ có bằng cấp phép của Mỹ, là người nỗ lực trong việc thúc đẩy giáo dục y tế dự phòng. Trong cuốn sách mang tựa đề “Âm thanh nơi hoang dã” (Mutant Message Down Under), bà đã kể lại một hành trình tâm linh đầy bí ẩn của mình. Mặc dù luận điểm này vẫn còn khá mới mẻ đối với giới nghiên cứu, nhưng với bà Marlo, hành trình đó vô cùng ly kỳ, cực kỳ chấn động và cũng cực kỳ trân quý. Bà đã ghi chép lại rõ ràng mỗi từng chi tiết từ ngày đầu tiên tới với bộ lạc cho đến ngày cuối cùng rời đi. Bà nhớ lại khi mới đặt chân tới bộ lạc Chân Nhân, người của bộ lạc đã tự ý đem đốt tất cả những đồ vật của bà. Họ nói rằng đó là làm nghi thức tịnh thân cho bà. Trong con mắt của người bộ lạc, nghi thức này có ý nghĩa vứt bỏ ham muốn vật chất và trói buộc của một số tín niệm. Đây là bước rất quan trọng để Marlo dung nhập vào với cuộc sống của bộ lạc.
Trước tiên, hãy nói về cuộc sống thường ngày của bộ tộc Chân Nhân. Khi hoàng hôn đến, người trong bộ tộc sẽ kể chuyện, ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi, tâm tình. Tới buổi tối, họ sẽ ngắm bầu trời đầy sao. Ngày ngày, năm nào cũng vậy, buổi sáng khi mặt trời chưa lên, tất cả mọi người tập hợp thành hình bán nguyệt, kề vai nhau, hướng về phía đông và cầu nguyện. Họ đồng lòng ngâm tụng, vỗ tay, dậm chân, vỗ đùi; cầu nguyện cho một ngày mới, cho bản thân, cho bạn bè và cho cả thế giới. Sau khi sinh sống không lâu cùng với bộ lạc, bà Marlo đã nhanh chóng phát hiện ra giác quan của bộ tộc Chân Nhân phát triển tới mức rất cao, vượt xa con người văn minh hiện tại. Thị giác, thính giác và khứu giác của họ dường như đều đạt tới cảnh giới siêu phàm.
Chúng ta biết người thổ dân châu Úc sinh tồn nơi môi trường vô cùng nóng bức khắc nghiệt, nên nguồn nước trở thành một phần rất quan trọng đối với họ. Bà Marlo phát hiện ra rằng người bộ tộc Chân Nhân có cách tìm ra nguồn nước rất độc đáo. Họ nằm xuống dưới đất để thám thính nước ở dưới đất, hoặc họ sẽ úp lòng bàn tay xuống đất để dò tìm nguồn nước. Khi tìm ra nguồn nước họ sẽ cắm trên mặt đất một vài cây sậy dài rỗng, hút vào ở đầu sậy và nước sẽ chảy ra giống như một đài phun nước nhỏ. Đôi lúc họ quan sát mặt trời chiếu trên mặt đất để phát hiện ra hơi nước, hay thậm chí chỉ ngửi làn gió nhẹ là có thể cảm thấy được sự tồn tại của nước. Thử tượng tượng con người bình thường chúng ta muốn sống trong môi trường như họ mà không có những kỹ năng sinh tồn như thế thì quả thực không thể nào sống sót được.
Điều thú vị là khi họ lấy nước từ các khe đá, họ còn phải tuân thủ quy tắc của thiên nhiên. Ví dụ nếu như đi tới gần nguồn nước cần làm thế nào để không cho mùi của con người làm ô nhiễm nước, hoặc cần phải chú ý không được làm kinh động tới các động vật… bởi vì họ cho rằng động vật cũng như con người, đều có chung quyền lợi đối với nguồn nước. Vì vậy, bộ tộc Chân Nhân sẽ không chiếm hết tất cả nguồn nước, mỗi khi tới một nơi nào đó, mọi người sẽ lấy nước uống ở cùng một chỗ của nguồn nước.
Không chỉ nguồn nước, kể cả lương thực cũng vậy. Bà Marlo kể rằng, trong những hành trình đi bộ cùng người của bộ tộc, mọi người đều ăn rễ củ của cây và các loại rau mọc dưới đất, loại cùng họ với khoai tây và khoai lang. Họ chỉ cần di chuyển tay trên bề mặt thực vật liền biết cây đã trưởng thành hay chưa, chứ không cần phải đào chúng lên khỏi mặt đất để xem. Họ nói rằng cách tìm lương thực này là năng lực khám phá thiên phú của con người.
Phương pháp để khám phá ra là trước tiên hỏi thực vật liệu nó đã chuẩn bị tốt để thực hiện mục đích tồn tại của nó chưa, sau đó là nhận được sự đồng ý của thiên nhiên, dùng lòng bàn tay cảm nhận dưới mặt đất. Khi tìm được thực vật trưởng thành, bàn tay họ sẽ cảm nhận như có một luồng khí ấm, ngón tay sẽ bất giác tóm lấy kéo lên. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo hệ thống tuần hoàn như thế. Người của bộ tộc Chân Nhân kiếm thức ăn để sinh tồn từ thiên nhiên, dung hợp với vạn vật và từ đó mà thuận theo tự nhiên, đạt đến sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên.
Lão tử giảng: “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên”. Theo lý luận của Đạo gia những điều này đều là sự sắp xếp của quy luật của vũ trụ, quy luật tuần hoàn của hoà hợp hướng Thiện.
Truyền cảm tâm linh
Bà Marlo còn nhận ra ngoài khả năng cảm nhận siêu thường về nguồn nước và lương thực, bộ tộc Chân Nhân chỉ cần nhìn dưới đất là biết quanh đó có động vật nào thường hay lui tới. Bởi vì từ khi còn rất bé họ đã nuôi dưỡng thói quen quan sát tỉ mỉ, thậm chí tới dấu chân của nhau họ cũng nắm rất rõ, không chỉ nhận ra được chủ nhân của bước chân đó là ai, mà còn có thể căn cứ vào cỡ chân to nhỏ để phán đoán người đó có bệnh không. Nếu trên dấu chân có sự chênh lệch nhẹ, họ có thể suy đoán ra điểm đến của chủ dấu chân. Bởi vì họ cho rằng dấu chân có biên độ, chứ không chỉ đơn thuần là hình ảnh hiển hiện trên mặt cát.
Một hôm, trong hành trình đi đường dài, bà Marlo gặp một chàng trai trông khá trẻ tuổi nói rằng cậu đang làm một nhiệm vụ đặc biệt nên phải rời đi trước từ sáng sớm, bà Marlo sẽ cùng mọi người lên đường sau. Kết quả, họ mới đi vài tiếng, trưởng lão của bộ lạc đột nhiên dừng lại, quỳ xuống đất. Mọi người vây quanh ông, trưởng lão vẫn trong tư thế quỳ gối, dang rộng hai cánh tay hướng về phương xa, từ từ đung đưa. Mọi người không ai nói gì, vẻ mặt đều rất nghi hoặc.
Khi đó, trong bộ lạc có một người duy nhất biết tiếng Anh – tên là Wuda. Ông nói với bà Marlo rằng người thanh niên buổi sáng sớm rời đi tìm đường đang truyền cho họ thông tin. Anh muốn trưởng lão cho phép anh cắt đuôi của một con kangaroo mà anh ta đã giết. Thông tin này không phải được chuyển qua tin nhắn điện thoại, hay email mà là truyền cảm tư duy. Bởi vì đuôi là bộ phận nặng nhất của kangaroo, còn người thanh niên do trên đường uống phải nước bẩn nên toàn thân bị sốt, cảm thấy khó chịu và không còn sức mang cả con kangaroo quay trở về. Vì thế, chỉ có cắt bỏ đuôi nó đi thì anh mới có thể mang về. Lúc này, bà Marlo cuối cùng mới hiểu ra tại sao hàng ngày trên đường đi mọi người trong bộ lạc đều giữ yên lặng. Phần lớn những lúc đó họ sử dụng truyền cảm tâm linh để truyền thông tin với nhau, căn bản là không cần phải mở miệng nói ra lời.
Nếu như không phải được chứng kiến tận mắt, bà Marlo chắc không dám tin con người lại có thể giao tiếp với nhau như vậy. Trong chuyến đi, bà Marlo cảm thấy có được cơ hội tìm hiểu về phương thức sinh hoạt kỳ diệu của tộc người Chân Nhân quả là may mắn, trong tâm bà không khỏi cảm kích. Một hôm, khi bà nằm xuống chuẩn bị ngủ, nhắm hai mắt lại, hướng tới Thần linh trên trời và thầm nói “Cảm ơn” ở trong lòng. Đúng lúc đó, ở phía xa nhất nơi mọi người cắm lều, có một tiếng nói, có vẻ như giọng của vị trưởng lão. Câu này được lặp lại bởi người đầu tiên, sau đó người thứ 2 tiếp lời nói cùng câu đó. Cứ thế họ truyền câu nói đó cho người cạnh mình, cuối cùng, câu nói truyền tới Wuda, và Wuda ở gần bà Marlo nhất nên anh truyền đạt lại với bà câu nói: “Đừng khách khí, hôm nay là một ngày tốt đẹp!” Không ngờ, hoá ra là họ đáp lại lời cảm tạ âm thầm của bà Marlo với Thiên Thượng. Điều này khiến bà vô cùng xúc động!
Anh nói rằng trong bộ lạc của mình nếu trẻ con thấy đứa trẻ khác đang chơi đồ chơi. Đồ chơi đó có thể chỉ là dây thừng dùng kéo đá, nếu trẻ có ý nghĩ muốn lấy món đồ, thì lúc đó lập tức sẽ cảm thấy tất cả con mắt của người lớn đều đổ dồn vào mình. Như vậy, trẻ nhỏ sẽ hiểu ra ý đồ chiếm đoạt đồ của mình đã bị nhìn ra, và hành vi đó là không đúng và cũng không dám làm. Trong quá trình đó, trẻ nhỏ cũng học được cách chia sẻ đồ của mình với người khác, biết cách vứt bỏ tâm lý tự tư của mình. Trẻ hưởng niềm vui thích mà món đồ chơi đem tới và lưu giữ hạnh phúc đó trong ký ức của chúng. Bởi vì cảm giác hạnh phúc mới chính là điều chúng muốn có, chứ không phải là bản thân món đồ chơi. Điều này thực sự rất trí huệ và sâu sắc!
Đối với người bộ lạc Chân Nhân thì việc dùng cổ họng để nói khiến con người dễ đắm mình trong sự nhàm chán tầm thường, trong các cuộc trò chuyện không có nội hàm tinh thần. Vậy rốt cuộc họ cho rằng cổ họng dùng để làm gì?
Cổ họng trị đau ốm
Một lần bà Marlo được tham gia vào hành trình dài với bộ lạc Chân Nhân. Trên đường đi, bà bị một loại cỏ biển đâm vào chân. Đây là loại cỏ có lá quăn, rất sắc nhọn, giống như gai cây xương rồng. Nếu bị cây đâm sẽ xuất hiện vết thương sưng tấy và ngứa ran. Khi đó, bà Marlo vô cùng đau đớn nên đề nghị mọi người dừng lại đợi mình nhưng trong đoàn mọi người nói với bà: “học cách nhẫn nại, chuyển sự chú ý tới chỗ khác”. Câu nói nghe như có vẻ châm biếm, nhưng bà Marlo vốn là một bác sĩ, mỗi khi khám bệnh cho bệnh nhân, bà cũng hay thường dùng câu nói này để nhắc nhở họ. Giờ lại có người nói câu đó với bà, đúng là nói thì dễ mà làm thì khó. Cuối cùng họ đi được hơn 3 tiếng, thực sự vượt quá giới hạn chịu đựng của bà. Nhưng kinh ngạc là vào những thời khắc như vậy, lại có điều gì đó khiến bà chuyển hướng chú ý, ví như lúc thì có con chim ưng bay phía trên đầu phát ra tiếng kêu u ám đáng sợ, khi thì có người chạy tới bên, chỉ cần bà phân tâm thì sức lực lại hồi phục trở lại và có thể tiếp tục cuộc hành trình.
Tới buổi tối, một cụ bà thổ dân tầm 90 tuổi đến bên Marlo để giúp chữa trị vết thương. Cụ bà lấy ra một loại thuốc mỡ từ hỗn hợp dầu lá, vừa bôi vào vết thương của Marlo và vừa hát, giọng bà êm ái dịu dàng, giống như mẹ đang hát ru cho con. Marlo cảm thấy rất tò mò và hỏi Wuda ý nghĩa lời bài hát mà cụ bà đang hát. Wuda nói rằng cụ bà đang xin lỗi và thể hiện sự biết ơn với đôi chân của Marlo. Bà nói rằng mọi người ở đây đều rất biết ơn đôi chân của Marlo và mong nó mau chóng bình phục. Thật kỳ diệu, một lúc sau hai chân của Marlo thực sự không còn cảm thấy đau nữa.
Còn có một lần, một người thổ dân trong bộ lạc không để ý bị rơi xuống vách đá và bị gãy xương. Trong bộ lạc của họ có hai bác sĩ, họ đưa người bị thương lên, để anh nằm xuống đất và dùng tay mat-xa, nhưng tay không chạm vào người bệnh mà cách thân bệnh nhân một chút, vừa mat-xa vừa hát. Chỉ đúng một ngày, bệnh nhân đã hồi phục trở lại bình thường, không lưu lại chút vết tích bị thương gì.
Với người của bộ tộc Chân Nhân, hát có thể giúp chữa trị bệnh, giúp chỗ bị bệnh rất nhanh lành khỏi. Họ nói rằng đó cũng là bản năng vốn có của con người. Vì bà Marlo cũng học ngành y, nên cảm thấy rất kinh ngạc khi chứng kiến những khả năng của bộ tộc Chân Nhân. Bà không lý giải được rằng liệu có sức mạnh nào có thể khiến xương gãy lành lặn, không lưu chút vết tích chỉ trong một ngày, mà lại không cần dùng thuốc.
Sứ giả được lựa chọn
Một lần, trưởng lão nói với bà Marlo rằng bà là sứ giả được bộ tộc Chân Nhân lựa chọn. Họ muốn bà Marlo mang những thông điệp quan trọng đưa về cho con người thế giới văn minh chúng ta. Bởi vì bộ lạc biết rằng con người trên thế giới đã thay đổi. Con người đã phá hủy một phần linh hồn trên mảnh đất này. Tình trạng phân bố nước mưa trên trái đất cũng đã thay đổi, thời tiết ngày càng nóng lên. Những năm gần đây, khả năng sinh sản của thực vật và động vật liên tục giảm sút và đang đối mặt với sự tuyệt chủng. Cơ chế tuần hoàn của tự nhiên đang tan rã. Bộ tộc Chân Nhân mong mỏi con người chúng ta hãy thực sự nhìn lại cách sống của bản thân. Họ hy vọng, trước khi trái đất huỷ diệt, nhân loại có thể tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề.
Trưởng lão nói rằng từ rất xa xưa bộ tộc đã vượt qua các thử thách sinh tồn nhờ tuân theo những tiêu chuẩn và quy tắc về đạo đức mà tổ tiên để lại và hiện giờ họ được phép rời trái đất. Bộ lạc Chân Nhân sẽ rất nhanh chuẩn bị rời trái đất, không sinh sản nữa. Họ nói rằng, khi người trẻ nhất của bộ lạc qua đời cũng có nghĩa là tộc người thuần khiết nhất thế giới sẽ biến mất khỏi trái đất, nhưng họ không thật sự biến mất bởi vì họ tồn tại mãi mãi.
Trưởng lão còn cho biết: “Có những ‘người biến chủng’ đã giác ngộ, họ sẽ đi tìm kiếm trở về linh hồn đã thất lạc và bản thân chân chính của mình, chỉ cần tập trung tâm lực thì các bạn sẽ vẫn còn kịp để đảo ngược sự huỷ diệt trái đất. Nhưng chúng tôi không thể giúp các bạn, thời gian còn lại của chúng tôi không còn nhiều”.
Buổi sáng sớm của ngày trước khi bà Marlo rời bộ lạc, họ vẫn như mọi khi cầu nguyện, nhưng ngày hôm đó họ nhóm lửa, đây là việc họ hiếm khi làm vào buổi sáng sớm. Họ nói đó là nghi thức cầu nguyện phúc lành cho bà. Mọi người trong bộ lạc tập trung lại, giang tay, để bà Marlo đứng ở giữa vòng tròn, tất cả đều nhắm mắt, ngẩng mặt hướng lên bầu trời và bắt đầu cầu nguyện.
Nội dung họ cầu nguyện đại ý là “Vạn vật nhất thể, Thần độc nhất vô nhị. Hôm nay chúng con đưa một người biến chủng tới trước Ngài. Chúng con đã đưa cô ấy đi qua sa mạc, phát hiện cô ấy vẫn còn chút lĩnh ngộ. Chúng con đã khai sáng và khích lệ cô ấy. Nhưng để thay đổi hoàn toàn người biến chủng thực sự không dễ dàng. Chúng con lựa chọn người biến chủng này, đảm nhiệm vai trò sứ giả của chúng con. Hôm nay chúng con tiễn cô ấy trở về xã hội của cô ấy, để cô ấy giống như chú chim lớn nơi vùng hoang dã của Úc rời tổ, bay vươn xa, mang thông điệp tộc người Chân Nhân sẽ rời trái đất gửi tới cho con người. Chúng con không phán xét những gì người biến chủng làm. Chúng con cầu nguyện cho họ, tha thứ cho họ, giống như cầu nguyện cho chính mình, mong tìm giải thoát. Chúng con hy vọng họ sẽ nghiêm túc suy xét hành vi và giá trị quan của bản thân, nhân cơ hội vẫn còn kịp mà nhanh chóng nhìn ra sự thật rằng tất cả sinh mệnh trên thế giới đều là một thể. Hy vọng họ sẽ ngừng phá hoại trái đất, ngừng việc tàn sát lẫn nhau. Chúng con hy vọng ngày càng nhiều người biến chủng tỉnh ngộ ra và gia nhập vào hàng ngũ cứu thế giới. Hy vọng xã hội người biến chủng tiếp nhận sứ giả của chúng con, lắng nghe những thông điệp cô ấy mang tới”.
Trong tín ngưỡng của bộ tộc người Chân Nhân, họ tin rằng tất cả mọi người đều là linh hồn và chỉ tạm thời tới thế giới này mà thôi. Tất cả linh hồn đều tồn tại vĩnh hằng, họ không mong đợi mọi cơ thể đều hoàn hảo tuyệt mỹ, mà điều quý giá vô hình ẩn chứa bên trong cơ thể xác thịt mới là đẹp nhất, Thiện nhất. Gặp gỡ với mọi người đều là tích luỹ trải nghiệm, và mọi trải nghiệm đều là kết nối vĩnh cửu. Với mỗi trải nghiệm, bộ lạc Chân Nhân đều mang tới kết thúc hoàn hảo, cuối cùng hình thành một vòng tròn hoàn chỉnh. Nếu khi con người rời đi mà trong lòng còn mang chút oán giận thì trải nghiệm đó sẽ không thể nào có được kết thúc hoàn hảo. Sau này, trong khi sinh mệnh luân hồi, nó sẽ lại lặp lại, con người sẽ lại phải chịu khổ hết lần này tới lần khác, cho tới khi con người nhận ra mới thôi. Quan sát những việc xảy ra trong cuộc đời, từ đó học hỏi để bản thân trí huệ hơn, học cách cảm ân và chúc phúc, sau đó mang theo trái tim an yên rời đi.
Bộ lạc Chân Nhân đã thông qua bà Marlo là sứ giả mang thông điệp về sinh mệnh vĩnh hằng và vạn vật nhất thể của mình gửi tới con người thế giới. Liệu con người chúng ta tiếp nhận được bao nhiêu trong thông điệp đó?
Mặc dù chưa đủ bằng chứng để xác thực thông tin trong câu chuyện trên, nhưng những trải nghiệm của bà Morgan ở góc độ tâm linh này – dù sao cũng mang lại cho chúng ta một câu chuyện thú vị và đáng suy ngẫm!
Theo ntdvn.com